- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Liên Hệ Việt Nam Và Pháp Trước 1858 (phần 2)

07 Tháng Mười Một 200812:00 SA(Xem: 10379)

w-hopluu97-t64_0_105x300_1II. NHỮNG NGƯỜI PHÁP ĐẦU TIÊN TỚI VIỆT NAM:

 

Dĩ nhiên, liên quân Pháp-Espania (Y Pha Nho hay Tây Ban Nha) và 13 chiến hạm dưới quyền Phó Đô Đốc Charles Rigault de Genouilly tiến vào vụng Trà Sơn (Đà Nẵng) cuối tháng 8/1858 không phải là những người Pháp đầu tiên đặt chân tới nước Việt. Từ thế kỷ XVII, các nhà phiêu lưu Pháp đã tìm tới. Họ gồm 4 nhóm chính: giáo sĩ Ki-tô, lính đánh thuê, thương gia, và sĩ quan hải quân mang sứ mệnh "ngoại giao chiến thuyền." Dù muốn chăm lo cho linh hồn người bản xứ, đam mê làm giàu hay thỏa mãn chí khí của thế hệ mình, những người Pháp trên đã trực hoặc gián tiếp giúp các chính phủ Paris thiết lập nền bảo hộ Đại Nam.

A. GIÁO SĨ:

Dưới thời Pháp thuộc, Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc Lộ, 1591-1660), thuộc dòng Tên (Jesuite), được xưng tụng có công đầu trong việc giảng đạo và thành lập Hội truyền giáo hải ngoại Pháp, hay Hội thừa sai. Rhodes đến Đại Việt năm 1626, khi cuộc nội chiến giữa hai họ Trịnh và Nguyễn vừa bùng nổ. Ở Đàng Trong khoảng một năm, Rhodes ra Đàng Ngoài. Năm 1630, Trịnh Tráng trục xuất Rhodes vì nghi làm gián điệp, liên hệ với giòng dõi họ Mạc (1527-1593) ở Cao Bằng cùng họ Nguyễn ở phía Nam. Mười năm sau, Rhodes trở lại Đàng Trong. Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi, 1613-1635) trục xuất, nhưng Rhodes vẫn trở lại thêm ba lần, trước khi rời Hội An năm 1645. (34)

Như đã lược nhắc, nhiều giáo sĩ Ki-tô người Âu đã tới Đại Việt trước Rhodes. Quốc sử nhà Nguyễn còn ghi từ triều Mạc một giáo sĩ Portuguese [Bồ Đào Nha] là I-nê-xu (Ignatio hay Ignace) đã đến truyền đạo tại miền ven biển thuộc Giao Thủy và Nam Chân, tỉnh Nam Định ngày nay.(35)

Người ghi công đầu trong việc đưa Ki-tô giáo từ ngoại vi xã hội vào sâu sinh hoạt chính trị và văn hoá Việt Nam là Pierre [Pedro] Pigneau de Béhaine (1741-1799). Thụ phong Giám mục Adran năm 1774 khi đang điều khiển một tiểu chủng viện ở Kampuchea, từ năm 1777 [hoặc 1780] Pigneau đã đầu tư vào Nguyễn Chủng (còn có tên Noãn, hay Ánh), trong cuộc nội chiến với nhà Tây Sơn (1778-1802). (36) Năm 1783, Nguyễn Chủng ủy thác Pigneau mang con trai lớn là Cảnh, lúc ấy mới 4 tuổi, đi cầu viện Pháp. Vì nhiều lý do, Pigneau và Cảnh phải sống ở Kampuchea gần 2 năm mới qua được Pondichéry vào tháng 2/1785. Tại đây, hai Quyền Thống đốc Coutenceau d’Algrains và Tử tước [Vicomte] de Souillac chống lại tham vọng chính trị của Pigneau. Cuối cùng, tháng 7/1786, Đại tá Charpentier de Cossigny mới thuận cho Pigneau đưa Cảnh qua Pháp. Ngày 5/5/1787, Louis XVI tiếp Pigneau và Cảnh tại Versailles. Hơn 6 tháng sau, Pigneau nhân danh Nguyễn Chủng ký với Ngoại trưởng Armand-Marc de Montmorin-St-Hérem (2/1787-7/1789) Hoà ước 28/11/1787, cắt cho Pháp bán đảo Tourane [Đà Nẵng] và Poulo Condore [Côn Sơn]; cho Pháp thiết lập trạm buôn và căn cứ Hải quân dài theo bờ biển; đổi lại, Pháp sẽ giúp 1,500 quân, chiến hạm, khí giới để đánh nhau với Tây Sơn. (37)

Ngày 27/12/1787, Pigneau rời Lorient qua Isle de France (Maurice). Ngoại trưởng Pháp tặng tiền, và tăng phái cho một ít sĩ quan. Pigneau thành lập ở đây một đạo thánh chiến quân, mang sang giúp Chủng. Ngày 18/5/1788, Pigneau trở lại Pondichéry. Nhưng Bá tước, Trung tướng Thomas de Corway [Conway]–từng tham chiến ở Mỹ và bị dính líu vào một âm mưu phế lập tại đây–từ chối cấp binh thuyền cho Pigneau. Quyết định này dựa trên mật lệnh từ Louis XVI ngày 2/12/1787, là "Tùy nghi hành động để thành lập một cơ sở ở Đại Việt; làm sao để vừa ít tốn kém vừa được nhiều lợi nhuận." Đồng ý với de Conway, tháng 7/1788, Tổng Giám đốc thuộc địa De Vaires cho ngưng cuộc viễn chinh. Ngày 16/11/1788, Bộ trưởng Hải quân De la Luzerne cũng tán thành, đề nghị cấp một tàu hạng trung đưa Hoàng tử Cảnh đến bất cứ nơi nào ông ta muốn; phần Pigneau có thể cho về nước. Louis XVI chấp thuận. (38)

Trong thời gian Pigneau tìm phương tiện giúp Nguyễn Chủng, tại Đại Việt tình hình cực kỳ sôi động.

1. Ngày 18/1/1785, Nguyễn Huệ đánh tan chiến thuyền Xiêm do Nguyễn Chủng cầu viện về ở Trà Suốt (Mỹ Tho). Ngày 9/4/1785, Chủng chạy sang Xiêm cầu viện lần thứ hai; nhưng Rama I chẳng còn hùng tâm giúp đỡ. Xiêm La lại đang hiềm khích với Diến Điện. Năm 1786, khi Diến Điện sai 3 đạo quân sang đánh Xiêm, Rama I phải nhờ Chủng đi chống cự. (39)

2. Mùa Hè 1786, Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc, nêu danh nghĩa "phò Lê, diệt Trịnh." Ngày 21/7/1786, chiếm Hà Nội. Trịnh Khải [Đống] tự tử. Huệ đưa Lê Duy Kỳ (Chiêu Thống, 1786-1788) lên ngôi. Hai năm sau, do giòng giõi chúa Trịnh muốn khôi phục quyền lực, rồi đến Nguyễn Hữu Chỉnh và Võ Văn Nhậm [Sĩ?] lộng quyền, Huệ lại ra Bắc. Duy Kỳ bỏ chạy, xuống hịch chống Tây Sơn; mẹ trốn qua Trung Hoa cầu viện. Tháng 10/1788, vua Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đưa Duy Kỳ về nước. Mang quân thuộc bốn tỉnh Hoa Nam, chia làm 2 cánh tiến vào đất Bắc. Ngày 17/11/1788, Nghị vào tới kinh đô. Được tin, ngày 22/12/1788 (25/11 Mậu Thân) Nguyễn Huệ tự xưng Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu Quang Trung, rồi mang quân ra Bắc. (Một tài liệu khác ghi ngày 8/11/1788, tức 11/10 Mậu Thân) Trong dịp Tết Kỷ Dậu (1789), Huệ đánh tan liên quân Thanh-Lê, nhất thống lại lãnh thổ Đại Việt cũ. (40)

3. Trong khi đó, nhân cơ hội anh em Tây Sơn bất hòa, ngày 13/8/1787 Nguyễn Chủng trốn khỏi Bangkok về nước. Lực lượng xung kích là đạo quân "lê dương," qui tụ đủ loại hải tặc, thổ phỉ người Âu, Hoa, Miên, Xiêm, Tagals. Kiệt hiệt nhất có Hà Hỉ Văn, người Tứ Xuyên, Trung Hoa, thuộc Bạch Liên giáo, lúc ấy làm ăn ở vùng Côn Lôn và Vịnh Xiêm La. Ngoài ra, còn Nguyễn Văn Tồn, gốc Trà Vinh, một cựu nô lệ ở Nam Vang, đóng góp khoảng 3,000 lính Khmer, và Vinh Ma Ly, một hải tặc Xiêm. Tháng 12/1787, Chủng mang chiến thuyền đánh Cần Thơ. Nguyễn Lữ chạy lên Biên Hòa, rồi về Qui Nhơn. Ngày 7/9/1788, Chủng chiếm lại Sài Gòn. Thái bảo Tây Sơn là Phạm Văn Sâm [Tham] rút giữ Ba Thắc, rồi xin hàng. Chủng làm chủ miền Nam từ đó. (41)

4. Một trong những lý do giúp Nguyễn Chủng hồi phục mau chóng là thế lực Tây Sơn ngày một suy yếu. Sau khi từ Bắc trở về, anh em Tây Sơn bắt đầu bất hòa. Nguyễn Huệ mang quân đánh Qui Nhơn. Nguyễn Nhạc phải lên thành kêu gọi, Huệ mới lui binh. Lấy Bến Ván làm ranh giới. Huệ cai trị từ phủ Thăng, phủ Điện ra Phú Xuân. (42)

Thực tế Đại Nam hẳn ít nhiều ảnh hưởng trên quyết định của các viên chức Pháp. Ngày 15/3/1789, sau khi nhận được báo cáo của thuộc viên được gửi qua Đại Việt thám thính, Conway trình lên Bộ Hải Quân rằng đảo Poulo Condore và Hội An vô giá trị; phí tổn viễn chinh khó thể đền bù bằng thu nhập trong một thời gian ngắn. Bởi thế, ngày 16/4/1789, Bộ Hải Quân thông báo cho Pigneau biết không thể có cuộc viễn chinh Đại Việt. Thư này không đến tay Pigneau vì ngày 15/6/1789, Pigneau đã lên tàu Méduse qua Gia Định. (43)

Tiếp đó, tại Pháp cách mạng 1789 bùng nổ. Dân chúng truất phế Louis XVI, thành lập chế độ Quân chủ lập hiến [cho tới ngày 10/8/1792]. Tháng 10/1789, Hội Đồng Quốc Gia (Conseil d’Etat) Pháp bác bỏ việc yểm trợ Chủng theo đề nghị của Charpentier de Cossigny, cựu Thống đốc Pondichéry.

Tại Đại Việt, Pigneau và Hoàng tử Cảnh về tới Gia Định ngày 24[28?]/7/1789. Nguyễn Chủng phong Pigneau làm Đạt Mệnh Điều Chế Tần Thủy Bộ Viện Binh, Giám mục thượng sư. Lính đánh thuê Pháp lục tục kéo tới, tăng cường cho đạo Lê dương đủ quốc tịch của Chủng. (44)

Sự đóng góp lớn nhất của Pigneau là hệ thống các giáo sĩ và giáo dân Ki-tô. Bởi thế, sau cái chết đột ngột của Quang Trung ngày 14/9/1792–cái chết khiến có người nghi các giáo sĩ Ki-tô đã nhúng tay–ngày 26/3/1795, Giám quốc Bùi Đắc Tuyên lại cấm đạo. Nhà thờ Ki-tô bị biến thành trại lính. Lệnh này chỉ bị bỏ sau khi Võ Văn Dũng làm đảo chính, buộc tội Tuyên chuyên quyền, giết đi. (45)

Nhờ ảnh hưởng Pigneau, năm 1793 Cảnh được phong chức Đông Cung Thái tử. Nhưng hiềm khích giữa Pigneau cùng các đại thần Việt, kể cả một thân vương em Nguyễn Chủng, cũng gia tăng. Cái chết bệnh của Pigneau tại cửa biển Thị Nại ngày 9/10/1799–một năm sau ngày công bố "phép lạ La Vang"–và rồi chứng bệnh đậu mùa lấy đi mạng sống Cảnh tại Gia Định gần hai năm sau (20/3/1801), bóp tắt giấc mộng tạo nên một vua Ki-tô hoặc thân Ki-tô của Pigneau và các nhà truyền giáo.( 46)

Nhưng công lao của Pigneau phần nào được đền bù–trong ba thập niên đầu của nhà Nguyễn, các cộng đồng Ki-tô có dịp phát triển mạnh. Tại Tây Đàng Ngoài, giáo dân tăng gần gấp đôi từ 1795 tới 1825 (hơn 100,000 lên khoảng 200,000); Đông Đàng Ngoài tăng từ 133,751 năm 1804 tới 163,101 năm 1825, tức 22%; Đàng Trong tăng từ 47,000 năm 1795 lên 60,000 năm 1821.(47)

Dĩ nhiên, các giáo sĩ chưa thỏa mãn. Họ không hài lòng với chính sách tôn giáo của Gia Long tại Bắc Kỳ, khi vua cho lệnh phải xin phép quan địa phương nếu muốn sửa chữa nhà thờ, chùa chiền v.. v.. "để bớt tổn phí cho dân, mà giữ phong tục thuần hậu." Riêng về đạo Ki-tô, "dân các tổng xã nào có nhà thờ đổ nát thì phải trình quan trấn mới được tu bổ, dựng nhà thờ mới thì đều cấm." (48)

Họ cũng chẳng hài lòng việc Gia Long chấn hưng Khổng giáo để tạo thế chính thống tại nội địa, trước tinh thần hoài Lê của sĩ phu miền Bắc. Họ ngầm ủng hộ con Cảnh là Hoàng tôn Đán lên chức Thái tử, và chống lại Hoàng tử thứ tư là Đảm, người được sự yểm trợ của phe nho sĩ bảo thủ trong triều. (49)

Trong khi các nhà truyền giáo từng trải qua thời kỳ bài đạo vui hưởng giai đoạn hòa bình mới, những giáo sĩ trẻ–vì những lý do khác nhau–không ưa Thái tử Đảm (Minh Mạng). Họ luôn luôn báo động về một lệnh bài đạo sắp ban hành và sự "vô ơn" của Thái tử. Những Jean Taberd, Francois Régéreau, rồi Pierre Retord, Joseph Marchand, Cuénot, Havard, v.. v... đưa Minh Mạng và người kế vị vào thế một mất một còn với Ki-tô giáo.

 

B. LÍNH ĐÁNH THUÊ PHÁP:

Dù không phải là những lính đánh thuê Âu châu đầu tiên đến Đại Việt–nhóm thánh chiến quân do Pigneau tuyển mộ vào cuối thế kỷ XVIII thủ diễn vai trò khá quan trọng trong cuộc nội chiến Nguyễn-Tây Sơn. (50)

Pigneau tiến cử cho Nguyễn vương nhóm người Âu ưa phiêu lưu, mạo hiểm này từ thập niên 1780. Ba người đầu tiên là Manuel (Mạn Hoè), Gia Đố Bi và Ma Nộ E, gốc Portuguese. Năm 1782, Manuel tự tử khi chiến thuyền bị Tây Sơn vây đánh. Gia Đố Bi và Ma Nộ E chết trên đường đi Philippines. Pigneau đã dùng cái chết của họ để khích động dư luận trong chuyến qua Pháp cầu viện năm 1787.

Dẫn đầu đợt lính đánh thuê thứ hai là Victor Olivier (Ô-li-vi) de Puymanel–một binh nhì đào ngũ mới 20 tuổi, được Chủng cho chức Khâm sai cai đội (ngũ phẩm) và quốc tính (họ tên do vua ban) Nguyễn Văn Tín. Ngày 15/9/1788, Thống đốc Pondichéry cử Olivier cùng linh mục Paul [Bảo Lộc] Hồ Văn Nghị theo tàu Dryade thám thính miền Nam. Sau khi Chủng chiếm lại Sài Gòn, Olivier và Paul Nghị mang 1000 khẩu súng tới tăng viện. Từ năm 1789, Olivier phụ trách pháo và công binh. Mùa Hè 1792, được phong Thuộc nội Vệ úy (chánh tam phẩm), đi sát bên Pigneau và Cảnh. Năm 1794, cùng Phan Văn Triệu, Lê Văn Duyệt theo Đông cung đi Diên Khánh. Ba năm sau, theo Cảnh tới Quảng Nam, đóng thuyền tam bản đánh hỏa công. Hai lần được tước Khâm sai đi mua vũ khí ở Hồng Mao (1795) và Hạ châu (1799). (51)

Cùng tháp tùng Pigneau qua Sài Gòn năm 1789 có 14 sĩ quan và khoảng 80 binh. Đáng kể nhất là Philippe Vannier (Nguyễn Văn Chấn, 1762-1842, hạm trưởng tàu Phụng), Félix d’Ayot, Dominique Desperles, Godefoy de Forcanz (Lê Văn Lăng, coi tàu Bằng Phi), Jean Marie d’Ayot (chỉ huy tàu Đồng Nai và tàu Prince de Cochindrine, đặc trách vận tải và mua tàu, 27/6/1790), Julien Girard de l’Isle Sellé (hạm trưởng Prince de Cochindrine, 27/6/1790), Théodore Lebrun, Guillaume Gouilloux. Trong hai năm 1791-1792, một số người bỏ đi Macao hay Pondichéry, như Lebrun (1791), Félix d’Ayot (em J.M. d’Ayot), Gouilloux, v.. v... Năm 1793, Olivier chỉ huy bộ binh, và J.M. d’Ayot, de Rhedon, Vannier, d’Auray ngành thuyền.

Năm 1795, toán Lê-dương gốc Âu còn khoảng 40 người. Những người mới gồm Jean Baptiste Chaigneau (Thắng toán hầu Nguyễn Văn Thắng, hạm trưởng tầu đồng Phi Long, 1794), Trung úy Charles Stanislas Lefèbvre [Le Fèvre], cháu Pigneau, cùng nha sĩ Jean Marie Despiau (1795). Nhưng tháng 3/1795, d’Ayot bị trục xuất qua Manila. (52)

Ngoài ra, còn hai người Bri-tên, Ba-lang-hi và Laurent Barizy (Ba-la-di hay Nguyễn Văn Mân). Barizy–Lorient Barisy, người Pháp, theo tài liệu truyền giáo–là tay phiêu lưu chuyên nghiệp, có khả năng sáng tạo của một nhà văn, ghi lại sống động những trận hải chiến giữa Tây Sơn và nhà Nguyễn. Nhưng công việc chính yếu của Barizy là tìm mua khí giới và quân cụ ở các thuộc địa Tây phương như Singapore, Goa và Malacca. "Khâm sai thuộc nội cai đội" Barizy hợp tác làm ăn với các công ty Bri-tên ở Madras, và kiếm được một số vốn đáng kể. (53)

Theo tài liệu Pháp, đóng góp quan trọng khác của nhóm người Âu là xây đắp thành trì. Tháng 4/1790, Olivier, Lebrun và Vannier giúp xây thành Gia Định, trên bờ phải sông Sài Gòn, từ Rạch Bến Nghé (Arryoro Chinois) tới Rạch Thị Nghè (Arryoro de l’Avalanche). Thành xây theo kiểu Vauban, nhưng pha chế kiểu "bát quái" (tám cửa) của Trung Hoa. Hơn 60 năm sau, thành này giúp nhóm phản loạn Bế Văn Cận (bị Minh Mạng đổi tên thành "Lê Văn" Khôi), Joseph Marchand, Nguyễn Văn Chắm, cầm cự với quân triều đình hơn hai năm, từ 1833 tới 1835. (54) Vẫn theo tài liệu Pháp, nhóm Olivier còn giúp xây các thành Diên Khánh, Châu Đốc, Hà Tiên, Biên Hòa, Bà Rịa, v.. v...

Phần nhờ sự tiếp tay của đạo lính đánh thuê này, phần vì cả hai vua Quang Trung và Thái Đức nối tiếp nhau từ trần trong hai năm 1792 và 1793, đưa đến sự tranh quyền giữa giòng giõi Tây Sơn, Nguyễn vương dần dần đả bại được đạo tinh binh từng đuổi Xiêm (1785), phá Thanh (1789), lừng lẫy khắp Đông Nam Á.

Sau khi Pigneau chết, nhóm Olivier, Chaigneau, Vannier, và de Forcanz tiếp tục ở lại. Ít lâu sau, Olivier chết tại Malacca vì bệnh kiết lị (dysentery).

Tháng 2/1800, nghĩ rằng người Bri-tên giỏi thủy chiến, Nguyễn vương cho Barizy tập họp binh thuyền, chuẩn bị quân nhu, chiến cụ để mở chiến dịch giải vây Qui Nhơn. Nhưng ít tháng sau, Barizy bị tố cáo tham ô, ăn chặn lễ vật và mưu sát hạm trưởng người Bri-tên Henderson, bị đeo gông, hạ ngục ở Gia Định. Nhờ sự can thiệp của Thái tử Cảnh, Barizy được miễn tội. Cai đội Chaigneau, Vannier và de Forcanz theo trung quân đánh giặc, tham dự những trận hải chiến ở Thị Nại và Thuận An, khi Tây Sơn có chiến thuyền trang bị từ 50 tới 60 đại bác. Sau khi Chủng tái chiếm Phú Xuân ngày 13/6/1801, Vannier, Chaigneau và de Forcanz đều được thăng cai cơ. Phần Barizy được phái đi mua súng đạn, chuyến công tác cuối cùng. Ngày 17/9/1803, Giám mục Labartette cho Paris biết là Barizy đã chết một năm trước. (55)

Từ năm 1803, Chaigneau và Vannier, với chức Chưởng Cơ, phụ tá Nguyễn Đức Xuyên coi ngoại thương (cai tàu vụ). Vai trò Chaigneau có vẻ vượt thắng, sau khi dịch sách toán Tây phương và thiên văn cho Gia Long vào mùa Thu 1804. Ít năm sau, Chaigneau còn dịch sách Macao và lịch Pháp. (56)

Là những tín đồ Ki-tô bảo hoàng, Chaigneau và Vannier ước mơ thắt chặt quan hệ Pháp-Việt và không dấu sự bất mãn với thái độ bài Ki-tô của giới thân cận Thái tử Đảm. Vannier cũng chỉ trích Đảm thiếu tín nghĩa, đa nghi và bài đạo. Sau ngày Gia Long chết, Minh Mạng còn bị buộc tội là vô ơn, và bần tiện. Chiến dịch tuyên truyền chống Minh Mạng và Khổng giáo–được đại diện bằng những quan lại mồm bỏm bẻm nhai trầu, hút thuốc rê, móng tay dài cong, ít khi tắm rửa hay thay quần áo, cộng thêm hành động gian tham, xách nhiễu quyền lực với khách buôn Tây phương–khiến thiên đường hạ giới Onam một thời bị hạ cấp thành một xứ "giáp ranh sự mọi rợ." (57)

Do việc Minh Mạng từ chối nhận Chaigneau làm Lãnh sự của vua Louis XVIII, Chaigneau và Vannier xin về nước. Ngày rời Việt Nam bị đình hoãn tới cuối năm 1824 vì chiến tranh Pháp-Espania, và phần nào vì Vannier muốn kiếm thêm ít lợi tức dưỡng già qua phần hoa hồng mà công ty ở Bordeaux hứa hẹn. Minh Mạng cho cả hai hàm Chưởng cơ, và mỗi người 6,000 quan tiền. Hơn một năm sau, Vannier giới thiệu Cormier [Cormière hay Cốt Tu Mi], hạm trưởng Le Courrier de la Paix, mang hàng hoá tới Đà Nẵng. Triều thần muốn gửi trả, nhưng Minh Mạng vẫn nhận, trả đủ 7,680 lạng, vì "Chấn [Vannier] là tôi tớ nay nghỉ việc về nước mà còn nghĩ đến ơn nuôi dưỡng mấy chục năm của triều đình, nay cách xa muôn dặm dâng lòng thành, hiền lao vẫn như thuở trước." Lại giảm 50% thuế cảng; cùng gửi quà tặng và thư cho Vannier và Chaigneau. (58)

Chưởng cơ Forcanz chết năm 1811. Y sĩ Despiau chết vì dịch tả (cholera) tại Huế vào cuối năm 1824.

Ở thời điểm này, nhóm phục hưng chính giáo đã thống trị triều chính. Nguyễn Đức Xuyên xin hồi hưu rồi từ trần ít tháng sau. Trịnh Hoài Đức thay nắm ty Thương Bạc được ít tháng cũng từ trần, Trần Văn Năng lên thay. Sự nghi kỵ người ngoại quốc và chiến dịch bài Minh Mạng của các giáo sĩ khiến vua không tuyển mộ thêm các cố vấn Âu châu. Vì nhu cầu thông dịch ngoại ngữ, năm 1826, vua mời ba giáo sĩ tới Huế để làm việc trong Hành nhân ty–nhưng bị đánh giá như dấu hiệu đàn áp Ki-tô giáo.

 

C. THƯƠNG GIA:

Nhiều thập niên sau khi thuyền buôn Portuguese ghé hải cảng Đại Việt, thương gia Pháp mới tìm đến. Năm 1672, dưới triều Trịnh Tạc (1657-1682), một công ty Pháp hoạt động ở Phố Hiến (Hưng Yên). 14 năm sau, Verret lập trạm buôn trên Côn đảo, chỗ ngừng chân của thuyền buồm đi lại giữa Trung Hoa và vùng biển Nam. Nhưng từ đầu thế kỷ XVIII, hầu hết thương gia ngoại quốc đều rời Đại Việt.

Suốt hơn thế kỷ kế tiếp, thương gia Pháp chỉ quan tâm đến Âu châu, Mỹ Châu, India, Trung Hoa cùng những hải đảo thuận lợi cho việc khai khẩn quặng mỏ hay đồn điền (plantation) để cung cấp các nông phẩm mang lại lợi nhuận cao như thuốc lá, ớt, hồ tiêu, cà-phê hay cao su. Trung Hoa, dưới ngòi bút và chuyện kể của những người phiêu lưu mạo hiểm như Marco Polo, trở thành địa đàng [Eldorado] của những tay muốn làm giàu–nguồn tài nguyên thiên nhiên vô tận, và một thị trường đầy cám dỗ. Chỉ cần mỗi người Trung Hoa mỗi năm tắm một lần bằng xà-phòng thơm, hay đánh răng bằng loại kem ngoại hóa, chẳng hạn, số xà-phòng và kem đánh răng tiêu thụ mang lại lợi tức khổng lồ. Nếu mỗi người Hoa hút một điếu thuốc thơm mỗi ngày, số thuốc cần nhập cảng lên tới 7.3 tỉ gói hàng năm. Bởi thế, Việt Nam chỉ ở vai trò thứ yếu, một thứ trạm ngừng chân tiếp tế lương thực và nước ngọt. Năm 1744, chi nhánh Công ty Ấn Độ Pháp [Compagnie Francaise des Indes] ở Canton gửi Jacques O’Friell tới Huế, mua được giấy phép buôn bán của Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) với giá 9600 roupies. Tuy nhiên, O’Friell không thuyết phục được Dupleix, Tổng Giám đốc công ty ở Pondichéry, hay Roth, cấp chỉ huy trực tiếp ở Canton, vào Đại Việt làm ăn. Những năm kế tiếp, các giáo sĩ thường kiêm chức đại diện thương mại của công ty Pháp. Sau chuyến đi thất bại của Linh mục Poivre năm 1749-1750, Dupleix gửi Giám mục Bénnetat mang thư riêng qua Huế, với một cựu thông ngôn của Poivre, và được phép lập sở buôn ở Tourane. (59)

Mãi tới năm 1776 liên hệ giữa Pondichéry và Đại Việt mới được nối lại. Năm 1777-1778, đại diện Pháp trên tàu DiligenteLe Lauriston có dịp chứng kiến cảnh quân Tây Sơn tàn phá Quảng Nam. Một đại diện Bri-tên, Charles Chapman, cũng hiện diện cùng tàu Rumbold, mang về Calcutta Linh mục Jean de Laureiro (Loreiro), y sĩ riêng của Nguyễn Vương, cùng một đại thần Đàng Trong. Nhưng cả Calcutta lẫn Madras không tán thành việc giúp chúa Nguyễn.

Trong thời nội chiến Tây Sơn-Nguyễn (1773-1802), thương gia Âu châu làm giàu bằng cách bán vũ khí cho cả hai phe. Hưởng nhiều lợi nhuận nhất là các công ty Bri-tên ở Madras, Johore và Penang, Dutch ở Djakarta và Portuguse ở Macao (nhượng địa của Portugal từ năm 1555). Các thuyền buôn Thanh và Xiêm cũng thường xuyên tới Sài Gòn. Vì tình hình chính trị nội địa và việc tranh chấp ảnh hưởng ở Phi và Mỹ Châu, thương gia Pháp chỉ giữ vai trò thứ yếu. Từ năm 1778, sau khi Bri-tên chiếm Pondichéry, tàu Pháp không đến Đại Việt nữa. (60) Thư tín trao đổi với các giáo sĩ ở Macao và Philippines phản ánh một thực trạng khá ngộ nghĩnh: vào cuối thế kỷ XVIII, trong khi nhóm Lê dương Pháp dần dần thao túng việc ngoại thương của Nguyễn Chủng–nhất là các dịch vụ mua vũ khí và quân nhu–họ đã kiếm được tiền hoa hồng từ các giáo sĩ và thương gia Bồ hay Bri-tên mà không phải người Pháp. (61)

Sau khi nhất thống sơn hà, vì nhiều lý do, Gia Long thay đổi hẳn chính sách ngoại thương: Đó là đồng ý buôn bán, nhưng không cho ngoại quốc đặt trụ sở trên đất liền. Từ năm 1803, vua nhiều lần từ chối tiếp các sứ đoàn Âu Mỹ đến xin ký thương ước, vì "hải cương là nơi quan yếu sao cho người nước ngoài được." (62) Năm sau, khi đại diện công ty Đông Ấn [East India Company] của Bri-tên hai lần tới Đà Nẵng, Gia Long lại từ chối, tuyên bố với các cận thần:

"Tiên vương kinh dinh việc nước, không để người Hạ lẫn với người Di, đó thực là cái ý đề phòng việc từ lúc còn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo, trí trá, không phải nòi giống ta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại." (63)

Vì vậy sau này sử quan Nguyễn đã ca tụng "khước đồ hiếu của Tây di" như công lao để đời hàng đầu của vua, trên cả những việc "cẩn thận phòng nước Xiêm, yêu nuôi nước Chân Lạp, vỗ về nước Vạn Tượng, uy danh lừng phương xa, nhân đức trùm nước nhỏ. . . ." (64)

Đây là một thay đổi quan trọng, cắt đứt dần quan hệ với phương Tây mà Gia Long từng tiếp cận nhiều thập niên–sự tiếp cận có lẽ quá gần với những "tôi tớ" đủ quốc tịch, ưa say sưa, ẩu đả; các lái súng mà sự lương thiện là những dấu hỏi lớn; và, các nhà truyền giáo tham vọng.

Tư liệu Nguyễn không giúp biết rõ chi tiết những chuyến ghé Đà Nẵng năm 1777-1778 của Cuny và Chapman, hay Đà Nẵng của Lord Macartney năm 1793. Các chuyến đi của John Barrow trong thời khoản 1792-1793 cũng không được ghi nhận. (65)

Từ năm 1797, Nguyễn Chủng đã lãnh đạm dần với Bri-tên, một đại cuờng quốc thời gian này. Hơn một lần Nguyễn vương dùng những tiếng như "lông tóc đỏ""quỉ quyệt" để đánh giá người Bri-tên. Năm 1798, có tàu Bri-tên đến "dâng phương vật," nhưng rồi xảy ra biến cố Barizy đi mua vũ khí, bị chiến thuyền Bri-tên Non Such bắt giữ. Mặc dù tàu và thủy thủ được trả lại an toàn, Chủng có thêm lý do để nghi ngờ Bri-tên. (66)

Sự thay đổi thái độ này phần nào do dịch vụ cung cấp vũ khí và đạn dược trong thời chiến không cấp thiết nữa. Trong khi đó, vua không khỏi nhức đầu vì những chủ nợ cũ. Sau cái chết của Barizy, đại diện công ty Abbott & Miatland ở Madras ít nhất ba lần đã tới Huế đòi thêm tiền bán khí giới. (67) Thêm nữa, từ Manila, anh em d’Ayot liên lạc lại với Huế–rao giảng tin đồn Napoléon Bonaparte đang liên kết các nước Âu châu đánh Bri-tên.

Tưởng nên nhấn mạnh, triều đình độc quyền việc ngoại thương. Vua nhập cảng những gì cần thiết cho chế độ như vũ khí, vải vóc, dược phẩm cùng vật dụng dành riêng cho giới quí tộc và quan lại. Đồng thời độc quyền thu mua và xuất cảng những mặt hàng mà thị trường ngoài nước ưa thích. Đại đa số dân chúng phải sử dụng hàng nội hóa, ngoại trừ thuốc "Bắc," trà, sâm, sách, giấy mực, v.. v... Thuế cảng (nhập bến), thuế đánh trên hàng hóa và tiền "ba lễ" [dâng hoàng thái hậu, dâng vua, dâng hoàng thái tử] quá cao. Các thuyền buôn ngoại quốc đến làm ăn–chủ yếu là Bri-tên, Macao, Xiêm và Thanh–phải theo luật lệ mới. Đó là chưa nói đến khoảng cách lớn giữa luật pháp và việc thực thi, linh động theo nhu cầu "cải thiện" cho các viên chức và môi giới. Từ năm 1803, ngoại thương chỉ còn diễn ra tại các hải cảng chọn lọc: Nam Định, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn và Hà Tiên. Riêng tàu Âu châu chỉ được ghé Đà Nẵng và Sài Gòn. Mọi giao tiếp với dân chúng bị tuyệt cấm. Bởi thế, gần cuối đời Gia Long, việc ngoại thương giảm hẳn. Tàu Macao không đến nữa. (68)

Để điền vào chỗ trống, vua sử dụng "Thanh nhân" làm giai tầng trung gian (lãnh trưng) mọi lĩnh vực–từ khai mỏ, thầu thuế chợ, chuyên chở, tới cung cấp nhu yếu phẩm như thuốc Bắc, vải vóc, v.. v... (69)

Riêng với Pháp, Gia Long cũng xa cách dần. Đầu năm 1790, đã viết thư cho chính phủ Pháp, trách móc Tướng de Conway và phủ nhận giá trị của hòa ước Versailles 1787, giao cho chính Pigneau dịch qua Pháp ngữ. (70) Từ 1817 tới 1819, một số tàu Pháp mới tới buôn bán ở Đà Nẵng và Sài Gòn. Đó là các tàu Le Henry [Henri?] của công ty Philippon et Cie. (tới Đà Nẵng tháng 12/1817 và 11/1819), La Rosse của hãng Balguerie, Sarget et Cie., Le Courrier de la Paix, v.. v... Các tàu này đều được Chaigneau và Vannier tiếp và giúp đỡ, nhưng Gia Long không tiếp kiến.

Đăng quang ngày 14/2/1820–đúng Tết Canh Thìn–Minh Mạng chỉ tiếp tục chính sách người "Trung Quốc" không ở lẫn với di địch. Những nỗ lực của Pháp xin ký thương ước–trên bối cảnh bành trướng ảnh hưởng của Bri-tên (qua công ty East India) tại Diến Điện (Burma), Xiêm, Malaya và Hoa Nam–đều thất bại. Khi Chaigneau từ Pháp trở về Huế ngày 17/5/1821, Minh Mạng đồng ý cho ở lại; nhưng không công nhận vai trò lãnh sự của Chaigneau, và không muốn quan hệ với một nước Đại Tây nào. Vua chỉ nhận thư Louis XVIII, và trả lời bằng Hán ngữ, sau khi Vannier và Chaigneau đe dọa xin hồi hương. (71)

Mọi nỗ lực ngoại giao của Pháp sau ngày Chaigneau và Vannier về nước đều không thành công. Đầu năm 1825, Nam tước Henri de Bougainville và chiến hạm Thétis mang theo thư Louis XVIII tới Cửa Hàn; có hải phòng hạm Espérance tháp tùng, Minh Mạng không cho tiếp kiến. Vua giải thích:

Nước Phú Lãng Sa cùng Anh Cát Lợi thù nhau, năm trước nước Anh Cát Lợi đã nhiều lần dâng lễ, trẫm đều từ chối không nhận, nay chẳng lẽ lại cho Phú Lãng Sa thông hiếu! Song nghĩ khi đức Hoàng khảo ta [Gia Long] bước đầu bôn ba từng sai thái tử Anh Duệ [Cảnh] sang nước họ, cũng có ơn cũ, nếu vội cự tuyệt thì chẳng phải là ý mến người xa. Rồi sai làm thư của thương bạc và thưởng cho mà khiến về. "Quốc thư và lễ vật thì không cho trình dâng." (72)

Tháng 1/1826, Pháp lại cử Eugene Chaigneau, cháu của Jean B. Chaigneau, làm Lãnh sự, đáp tàu tới Việt Nam. Dù Eugène từng qua Huế năm 1821 và ở lại phụ tá cho J. Chaigneau, Minh Mạng không tiếp. Bốn năm sau, Minh Mạng vẫn từ chối tiếp kiến khi Eugène trở lại Huế. (73)

Đại diện thương mại không chính thức của Pháp là Edouard Borel, có cơ sở ở Đà Nẵng. Borel cung cấp hàng hóa cho triều đình, nhưng cũng đồng thời tiếp tay đưa các giáo sĩ xâm nhập Việt Nam (như trường hợp Cuénot, Phụ tá Giám mục Qui Nhơn). (74)

Các sứ đoàn Bri-tên và Mỹ chẳng may mắn gì hơn. Năm 1822, sứ đoàn John Crawfurd [Cả-la-khoa-thắc] từ Bangkok qua Gia Định, được Lê Văn Duyệt tiếp ngày 28/8, và thông báo về Huế. Nhưng tại kinh đô, Minh Mạng không tiếp, vì không có thư của Quốc vương Bri-tên. Sai Thương bạc thư cho biết điều lệ buôn bán ở kinh đô, Quảng Nam và Gia Định, nhưng không cho buôn bán ở miền Bắc. (75) Năm sau, sứ đoàn Diến Điện do George Gibson–một người Bri-tên lai India [Ấn độ]–cầm đầu chỉ đến được Gia Định. (76) Một sứ giả Mỹ, Edmund Roberts cũng hai lần ghé Việt Nam, mang theo quốc thư của Tổng thống Andrew Jackson (1829-1837), để điều đình ký thương ước. Tuy nhiên cả hai lần đều thất bại. (77)

Hơn bốn năm sau, Minh Mạng giải thích chính sách ngoại thương của mình một cách rõ ràng hơn:

Bản triều ta, đối với người Tây dương: họ đến cũng không cự, họ đi cũng không theo, chỉ đối đãi coi như người di địch thôi. Thuyền Tây phương đến, không cho tiếp xúc với dân địa phương, bán hàng xong thì đi. Kiểm soát chặt chẽ, không để sơ hở, họ có lòng xảo quyệt cũng không làm được gì. (78)

 

Sự hùng hổ đi tìm thuộc địa của các cường quốc Âu Châu–qua việc Bri-tên chiếm Diến Điện (Hiệp uớc Yandabo vào tháng 2/1826, theo đó vua Bagyidaw cắt cho Bri-tên các tỉnh Assam và Manipur, trả chiến phí 5 triệu, ký Hiệp ước thương mại, và đặt đại diện ngoại giao), cùng một số đảo tại bán đảo Malaya, và hiệp ước với Xiêm La–không đủ thức tỉnh Minh Mạng khỏi cảm giác phiêu diêu của lời xưng tụng như "Văn thì thần, võ thì thánh, rực rỡ như trăng sao vận hành ở trên trời, cuồn cuộn như sông ngòi mông mênh ở mặt đất." (79)

Điều khó thể chối cãi là sau Gia Long, Minh Mạng có khả năng nhất trong các vua Nguyễn. Vua ý thức được nhu cầu hiện đại hóa cũng như nhận hiểu sức mạnh kỹ thuật và quân sự Tây phương. Khám phá ra cái hay của "Tây địch," từ năm 1826 Minh Mạng đã chê trách một số đình thần là "thô lậu," không hiểu được rằng "bậc vương giả là người biết lấy cái hay của người làm cái hay của mình"–cho chế xe kiểu Tây phương, tự mình khám phá ra cách sử dụng kính thiên văn, mua phong vũ biểu và hàn thử biểu, mua tàu, đại bác, máy móc và nuôi ảo vọng tự chế biến những mặt hàng này bằng cách mua tàu cũ về tháo ra để học hỏi. "Bậc vương giả" chỉ không biết một điều: cái hay về khoa học, kỹ thuật Tây phương không dễ lấy làm của mình. Nó đòi hỏi sự tích lũy kiến thức nhiều thế kỷ, sự hy sinh của các nhà bác học và khoa học miệt mài nghiên cứu, sự phát triển của kỹ nghệ và giai tầng chuyên viên. (80)

Những sách dịch của các giáo sĩ và nhất là sách báo Trung Hoa do thương thuyền đi Quảng Đông trở về giúp vua phần nào mở mang kiến thức phổ thông. Vào cuối thập niên 1820, vua bắt đầu bàn về những vấn đề nan giải từ thời Khổng Khâu, như trái đất vuông hay tròn, mặt trời gần trái đất vào buổi trưa hay buổi sáng. Năm 1839, vua chê các đại thần chẳng biết gì về hiện tượng nguyệt thực. Nhưng những cuộc trao đổi ý kiến về việc sét đánh cháy Văn Miếu, hay chôn tượng Khổng Khâu, chỉ thờ bài vị phản ánh sự hiểu biết bì phu của vua về khoa học. (81)

Cuộc xâm lăng của Xiêm đầu năm 1834 và việc chiếm đóng Kampuchea tiếp đó khiến nhu cầu chiến cụ gia tăng. Vua đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển hải quân (hải sư), đóng nhiều tàu và mua một số tàu "đại hiệu" bọc đồng, chạy bằng "máy đốt lửa" (hơi nước). Các tàu buôn và "ghe chiến" được cung cấp địa bàn, ống viễn kính, đồng hồ cát, cùng các loại đại bác mới bán trên thị trường.

Vua cũng có vẻ bớt bài Bri-tên hơn. Quan chức tuần hải Quảng Nam được lệnh đối xử hòa nhã, thân thiện với các thương thuyền Bri-tên ghé Đà Nẵng, kể cả việc miễn thuế, để chứng tỏ "đức ý" "vỗ yên thân mến người xa." (82)

Vua liên tục phái thương đoàn trung ương tới các cảng lân bang mua bán và thăm dò tin tức. Chánh Tuần hải đô dinh Hoàng Trung Đồng, một cựu hải tặc, và Phó tuần hải Thái Vân Quí từng đi Hạ Châu nhiều lần. Từ 1823 tới 1840, vua gửi hơn 10 đoàn thuyền đến Batavia (Đông Ấn thuộc Hòa Lan, tức Indonesia hiện nay) và "Hạ châu" tức Singapore và các hải cảng gọi chung là Straits Settlements của Bri-tên như Riau, Penang (Tân Lang hay Đảo Cau). Nhiệm vụ chính nhằm thực nghiệm đường biển, đồng thời mua bán vật dụng cần thiết, và thăm thú tình hình. Trung bình mỗi đoàn có 3 tới 5 thuyền. Thông ngôn đa số là giáo dân Ki-tô đã bỏ đạo. Nổi danh nhất có lẽ là Philippe, con Vannier. (83) Các chuyến đi Quảng Đông cũng khá thường xuyên. (84)

Trong khi đó, tại Bắc Thành và Gia Định Thành, Tổng trấn Lê Chất và Lê Văn Duyệt đều có những chuyến công tác do thám lân bang. (85)

Lớn khôn lên trong không không khí tương đối thanh bình–giữa cảnh sống xa hoa, vương giả–Minh Mạng không đủ kinh nghiệm ngoại giao quốc tế như Gia Long để học hỏi và thu nhập kiến thức kinh tế, chính trị phương Tây–một cách thực nghiệm như Rama III (1824-1851), trong cuộc chơi cân bằng quyền lực và văn hóa. Minh Mạng và các đình thần không tri nghiệm được sự thay đổi cán cân quyền lực Đông Nam Á–bình chân như vại trước việc Bri-tên chiếm Diến Điện, hay nỗ lực hiện đại hóa của Xiêm La (muang Thai), qua việc ký thương ước với Mỹ, Bri-tên, sử dụng người Hoa để phát triển kỹ nghệ đường trắng (từ năm 1816), và bắt đầu chu trình tằm thực các tiểu vương láng giềng. Với sự xúi dục của các nhà truyền giáo và lái buôn súng, chỉ một năm sau, chiến thuyền và binh đội Xiêm sẽ ồ ạt tấn công Việt Nam theo lời yêu cầu của nhóm Bế Văn Cận và Marchand, đồng thời tiến qua Kampuchea và Lào, buộc Minh Mạng phải quên đi lời trối trăng của Gia Long là "chớ nên gây hấn ngoài biên," uổng phí bao tính mạng trai tráng Việt và ngân khố quốc gia trong những cuộc chiến bất tận tại Kampuchea kéo dài tới gần cuối triều Thiệu Trị. (86)

Lên ngôi ngày 11/2/1841, Thiệu Trị không còn phong thái văn thì thần, võ thì thánh của Minh Mạng. Vua chỉ mơ ước theo đúng đường lối Minh Mạng đã đặt ra, và vui vẻ khen ngợi những lời xưng tụng như "đức cao hơn những đời chuộng văn, đạo thịnh hơn những đời chuộng võ;" từ khi lên ngôi, "phong hóa lan khắp, đạo trị quang minh, trong thì nhân dân nhảy múa mừng Xuân, ngoài thì phương xa lặn lội đến cống, đùn đùn như mây Đường Nghiêu bay, sang sảng như đàn Ngu Thuấn gẩy." (87)

Mối quan tâm hàng đầu của vua là "Trấn Tây Thành" (Kampuchea) và Xiêm, một di sản văn hóa/quân sự. Từ tháng 7/1840, quân Xiêm đã đưa Ang Duong về lãnh đạo cuộc chiến kháng yuon [duồn]. Rồi đến lượt người Việt gốc Khmer tại vùng châu thổ Cửu Long, thường được biết như "Thổ dạy." Được trang bị vũ khí Bri-tên và Mỹ, quân Xiêm gây cho quân Nguyễn nhiều thiệt hại. Tháng 9/1841 Thiệu Trị quyết định rút khỏi Kampuchea để ổn định sáu tỉnh miền Nam. Rồi sau một cuộc chiến ngắn với liên quân Xiêm-Khmer, từ 1845 tới 1846, vua gác giấc mộng thôn tính "Cao Miên;" ký hiệp ước với Xiêm, chấp nhận Kampuchea và một số tiểu vương Lào nằm trong vùng ảnh hưởng Xiêm. Đổi lại, Ang Duong thuận chia quyền lực với Ang Mey (Ngọc Vân, con Ang Chan). Từ năm 1848, Kampuchea trở lại tình trạng "phiên thuộc," ba năm cống một lần qua cửa An Giang. Ang Duong làm vua ở Oudong (Long Úc), trong khi Ang Mey làm quận chúa tại Nam Vang. (88)

Với Tây phương, ảnh hưởng cuộc chiến tranh nha phiến và sự xâu xé thị trường Trung Hoa khiến Thiệu Trị hòa hoãn hơn, dù vẫn nối tiếp chính sách tự cô lập, không cho nước ngoài đặt cơ sở trên lãnh thổ Việt và bài đạo Ki-tô.

Thương thuyền Việt tiếp tục đi Batavia, Singapore và Quảng Đông trao đổi thổ sản lấy hàng hóa. Từ 1841 tới 1847, có nhiều chuyến buôn bán với Batavia và Hạ Châu. (89) Chuyến đi Batavia, Riau và nhất là Singapore–mới xuất hiện như trung tâm thương mại và tài chính của Đông Nam Á với nguyên tắc tự do giao thương, không thu thuế–khiến những người có viễn kiến như Cao Bá Quát (1809-1855) đã bi phẫn thốt lên: "Giật mình khi ở xó nhà; văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi." Nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi một thập niên sau, Cao Bá Quát bị liên hệ vào cuộc nổi dạy của Lê Duy Cự, rồi chịu cảnh tru di tam tộc–một trong những bản án đầy nghi hoặc của thứ pháp luật quân chủ chuyên chế có hơn ngàn năm kinh nghiệm "đao bút." (90) Ngoài ra, vẫn còn những chuyến thường xuyên đi Quảng Đông, vừa ngoại giao, vừa buôn bán. (91)

Lên ngôi ngày 10/11/1847, Tự Đức được di chiếu là phải theo đúng đường lối của tổ tiên và lắng nghe lời khuyên của Phụ chính đại thần Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Thiếp [Hiệp]. Việc làm đầu tiên là nghiêm chỉnh thi hành chính sách của Thiệu Trị và Minh Mạng. Nhưng thời thế đã đổi thay. Chiến hạm Tây phương hoành hành khắp biển Đông, cho thấy hải quân Trung Hoa cũng trở thành "trò chơi của con trẻ trong vũng nước cạn," nói chi dăm chiếc thuyền đồng trang bị nhiều nhất là 32 khẩu đại bác bằng đồng pha gang tự chế biến.

Những năm đầu triều Tự Đức, việc buôn bán với ngoại quốc bị tạm ngưng. Có ba lý do chính. Thứ nhất, là cuộc pháo kích Đà Nẵng năm 1847 của chiến hạm Pháp. Mối nhục này khiến các đại thần quyết định cắt đứt ngoại thương với Tây phương. Thứ hai là vụ án "tham ô" mà Đào Trí Phú bị liên hệ năm 1848–một vụ án nặng tính chất chính trị hơn hình sự. Một trong những người tín cẩn của Thiệu Trị, Trí Phú bị mất chức, phạt trượng, đồ. Nhiều quan viên khác bị liên hệ. Năm năm sau, Trí Phú cùng một người trong Hoàng tộc, Tôn Thất Bật, còn bị liên lụy vào vụ án "phản nghịch" của Hường Bảo (1825-1854)–tức con lớn của Thiệu Trị, đã bị mất ngôi vào tay Hường Nhiệm tức Tự Đức. (92) Cách nào đi nữa, năm 1848, khi một thương gia đến giao hàng mà Trí Phú đã đặt mua cho vua, với giá trên 166,000 thuẫn (florin, tiền Dutch = 1 shilling, 7 Bri-tên, hay 2 francs Pháp), các đại thần đã khúm núm, nhưng cương quyết phản đối. Tự Đức chịu nhận lỗi. (93)

Những nỗ lực xin thông thương cuối cùng của Pháp–qua sứ đoàn Louis Charles de Montigny vào cuối năm 1856, sau màn hải pháo dằn mặt lần thứ hai tại Đà Nẵng–khiến một số viên chức Pháp nghiêng về nhận định của các giáo sĩ là triều đình Tự Đức chỉ còn nghe được tiếng đại bác. Ngày 4/5/1857, tại phiên họp thứ ba của Ủy Ban Cochin-Chine Chủ tịch Brenier de Montmorand tuyên bố rằng chỉ nguyên việc triều Nguyễn từ chối ký hòa ước đã đủ mang quân tấn công. (94)

Những nỗ lực xin thông thương của Bri-tên trong mùa Thu 1847, và Liên bang Mỹ vào tháng 2/1850 cũng đều thất bại. Ngày 9/10/1847, Sir John Davis từ Hongkong tới Tourane với hai chiến thuyền, biếu quà tặng, và tuyên bố không theo Ki-tô Vatican, chỉ muốn làm thương mại; nhưng Thiệu Trị từ khước. Sau hơn 10 ngày thảo luận với Tham tri bộ Hộ Tôn Thất Thường, người đã tham gia sứ đoàn 1839-1841, ngày 27/10 Davis rời Tourane. (95) Sứ giả Mỹ, Joseph Balestier–người vận động giao thương với Đại Nam từ thập niên 1830, đến Đà Nẵng ngày 25/2/1850 trên chiến hạm USS Plymouth. Mang theo thư của Tổng thống Zachary Taylor (1784-1850), xin lỗi việc John Percival bắn phá Đà Nẵng năm 1845 và thảo luận ký thương ước–bị từ chối vì "thuyền nước ấy [Mỹ] từ trước đến nay không có việc trái phép giết người nào cả;" dân Việt "chuyên nghề làm ruộng, trồng dâu, không thích chơi của lạ, nếu có lại buôn không lợi gì;" và không hài lòng việc thư Tổng thống Mỹ có vẻ đe dọa. (96)

 

D. SĨ QUAN HẢI QUÂN VÀ SỨ MỆNH NGOẠI GIAO:

Như đã lược nhắc, từ đầu thế kỷ XIX, Pháp đã thất bại trong nỗ lực nối lại quan hệ với nhà Nguyễn. Dẫu vậy sự hiện diện của Chaigneau, Vannier cùng các cộng sự viên của Pigneau de Béhaine–như Giám mục La Bartette, Jacques Liot, v.. v... gần kinh đô–khiến Pháp vẫn tự nhận có một thứ "quyền" bán chính thức đối với Việt Nam.

Tham vọng chiếm đóng Việt Nam–để giương cao ngọn cờ Đại Pháp, và ngăn chặn ảnh hưởng Bri-tên–là lập luận quen thuộc của các nhà ngoại giao và giới sĩ quan Pháp ở Viễn Đông. Hai lá thư hiếm hoi còn sót lại tại văn khố Pondichéry vào tháng 2/1778, của Chỉ huy trưởng Chandernagor gửi Toàn quyền Pondichéry de Bellecombe phản ánh quan điểm này. Theo Chevalier, chỉ cần chiến hạm Brillant, 150 lính Âu châu và 300 lính India (cipayis), cùng ít pháo đội đủ sức đánh chiếm Đàng Trong. (97) Tuy nhiên, Tướng de Conway, thống đốc Pondichéry từ 1787 tới 1789, không có tinh thần bài Anglo-Saxon quá khích như người tiền nhiệm. Nhận được chỉ thị của Louis XVI, de Conway quyết định không cấp binh thuyền cho Pigneau mang tới Sài Gòn–bất kể những ngón đòn thù của Hội truyền giáo và nhóm lính đánh thuê, kể cả tin đồn kiểu Conway ngoại tình với vợ một sĩ quan hầu cận. Và, dĩ nhiên, là những lời dèm xiểm với Nguyễn Vương, khiến Chủng nặng lời chỉ trích de Conway trong thư ngày 31/1/1790 gửi Louis XVI. (98)

Năm 1815, sau cuộc đại bại của Napoléon, triều đình Bourbons có ý đòi Gia Long thực thi Hiệp ước 1787. Tham tâm của Pháp bộc lộ qua thư Ngoại trưởng Richelieu gửi Chaigneau năm 1817, và chỉ thị cho Đại tá Achille de Kergariou, hạm trưởng tàu Cybèle đến Đà Nẵng đầu năm 1818–viếng thăm thân hữu, mang theo thư Richelieu yêu cầu Chaigneau báo cáo tình hình, kiểm kê lại bản đồ do Jean-Marie D’Ayot vẽ, đồng thời trao tặng Chaigneau và Vannier Bắc đẩu Bội tinh. (99)

Những sứ đoàn của Thiếu tá Courson de la Ville Hélio năm 1822, hay Nam tước Henri de Bougainville năm 1825 đều thất bại. Tháng 12/1830, chiến hạm Favorite lại cặp bến Đà Nẵng, xin gặp quan Thương bạc. Vua phái Nguyễn Tri Phương rồi Trương Đăng Quế tới dò hỏi. Thuyền trưởng nói Pháp muốn giao hiếu, vì quân Hồng Mao đang uy hiếp Quảng Đông, thế nào cũng tấn công Việt Nam. Lời cảnh tỉnh của sĩ quan hải quân Pháp về mối đe dọa của Bri-tên (và hàm ý cả sự đe dọa của Pháp) không đủ khiến Minh Mạng quan tâm. Vua sai Tri Phương trả lời là việc Quảng Đông chẳng liên quan gì đến Việt Nam. Thuyền trưởng vẫn chưa chịu đi, tự động lên núi Tam Thai [Non Nước] dò xét. Lại xin cho hoa tiêu đưa ra Bắc vẽ bản đồ. Tri Phương dĩ nhiên cự tuyệt. Sau đó, vua cách chức những người phụ trách hai đài An Hải và Điện Hải cùng thủ ngự và hiệp thủ Đà Nẵng. (100)

Lập trường của Minh Mạng là chỉ cần giữ lấy lẽ phải cho mình, và phòng giữ nghiêm ngặt các cửa biển, sẽ chẳng có gì bất trắc xảy ra. Vua cố gắng canh tân hải lực, lo "phòng giữ," nhưng khoảng cách kiến thức khoa học và kỹ thuật với Âu Mỹ quá xa. Những tàu thuyền, máy móc, đại bác, súng đạn trên thị trường thường là đồ phế thải của các cường quốc. Những trận hải chiến đầu năm 1834 cho thấy hải lực Việt thua kém cả Xiêm. Trong khi đó dù đang bối rối với nội loạn trong nước–từ Gia Định tới Bắc Kỳ–vua quên lời di chiếu chớ nên gây hấn ngoài biên, nuôi tham vọng diệt Kampuchea. Mọi nỗ lực canh tân đều bị đình trễ trong khi quốc khố vơi hụt vì chiến phí ngày một gia tăng.

Mãi đến cuối triều Minh Mạng, khi những tàu chạy hơi nước của Tây phương bắt đầu giương oai ở Thái Bình Dương–trong nỗ lực của liên minh Pháp-Bri-tên nhằm bảo vệ tự do buôn bán thuốc phiện và quyền hưởng thụ ma-túy của dân Trung Hoa–vua mới bắt đầu quan tâm, lo lắng. Ngoài việc chôn dấu bớt kho tàng, vua không ngừng tìm hiểu tình hình nhà Thanh từ các quan viên thân cận được gửi đi ngoại quốc, theo dõi sách báo Quảng Đông về phương lược đánh chiến hạm Tây phương, hay cho lệnh huấn luyện các pháo thủ cách bắn phá hữu hiệu chiến thuyền (bánh lái, cột buồm, tướng chỉ huy).

Sự xuất hiện của chiến hạm BoniteArtémise ngoài khơi sau khi Marchand bị xử tử năm 1836 và cuộc hành hình hơn 10 giáo sĩ, kể cả Francis Jaccard, cùng giáo mục bản xứ trong mùa Hè 1838 khiến vua nghĩ đến việc cải thiện bang giao với Tây phương. Cuối năm 1839, vua cử một sứ đoàn qua Pháp và Bri-tên. Nhưng quá trễ. Hội truyền giáo Pháp, Vatican và các sĩ quan Hải quân đã tiếp cận nhau hơn về các chiêu bài màu cờ vinh quang và ánh sáng văn minh. Từ năm 1838, Đô Đốc Martin Fourichon (năm 1875 trở thành Bộ trưởng HQ&TĐ) đã đề nghị đánh chiếm Tourane. Tháng 5/1857, Fourichon cảm thấy còn cần thiết hơn nữa. (101)

Suốt thập niên 1840 thêm nhiều chiến hạm Pháp ghé Đà Nẵng. Năm 1842, Ngoại trưởng Francois-Pierre Guizot cho lệnh hải quân Pháp đi tìm một căn cứ ở Viễn Đông. Vì Trung Hoa là mục tiêu chính của tư bản Pháp, Paris chưa có thì giờ lắng nghe những lời kêu van ai oán của các giáo sĩ, tạm giao cho các sĩ quan tùy nghi hành động. Trong năm 1843 và 1845, Thiệu Trị đồng ý trao trả một số cố đạo cho các tàu chiến Pháp. (102)

Sau khi đạt được hòa ước Hoàng Phố với nhà Thanh năm 1844, các sĩ quan Hải quân Pháp chuyển sang chính sách khiêu khích và ngoại giao hải pháo. Tháng 1/1847, một tàu Tây bỏ neo ở cửa biển Khánh Hòa, bắt giữ tra tấn quan tỉnh xuống tàu khám xét, hơn 10 ngày mới trả tự do. Tháng 3/1847, hai chiến hạm Victorieuse của Đại tá Augustin Lapierre và Gloire của Trung tá Charles Rigault de Genouilly tới Quảng Nam, có 5, 6 giáo sĩ tháp tùng, đòi phóng thích giáo sĩ cùng tự do giảng đạo. Theo ĐNTLCB:

Vua sai Lý Văn Phức xuống dò xét, cùng Tuần phủ Nguyễn Đình Tân, Lãnh binh Nguyễn Đức Chung giải quyết. Hai bên định ngày họp bàn. Đầu mục Phật Lan Tây [Pháp] là Lập Biệt Nhĩ [Lapierre] đem vài mươi tên đồ đảng, đeo gươm, đeo súng, đến thẳng ngay công quán, ngăn lại không được. Chúng đưa ra một bức thư bằng chữ Hán, lời lẽ phần nhiều ngông càn. Phức không chịu tiếp nhận, đầu mục Tây dương quát to để dọa nạt, đặt lá thư lên trên ghế rồi bỏ đi. Phức và Đình Tân bàn với nhau rằng: "Nhận lấy thư là có tội, mà đốt thư đi cũng có tội, không gì bằng cho chạy trạm về đệ tâu lên." Phức về kinh đợi lệnh. Vua nổi giận, đóng gông, tống giam vì làm mất quốc thể.

[Phần người Pháp] lại càng rông càn, ngày thường lên bờ, đi lại chỗ làng xóm. Những người nước ta vẫn theo tả đạo, phần nhiều đi lại nom dòm, thông tin tức kín. Những thuyền quân đi tuần biển bị chúng bắt giữ lại ở cửa biển. Có 5 chiếc thuyền bọc đồng ở kinh phái đi nam (Kim ưng, Phấn bằng, Linh phượng, Thọ hạc, Vân bằng) chưa kịp ra biển, còn đậu ở vụng Trà sơn, bị chúng sấn đến cướp thuyền và dây buộc....

Vua sai bọn Đô thống Hữu quân Mai Công Ngôn, Đào Trí Phú mang theo 3 vệ Vũ Lâm, Hổ Uy, Hùng Nhuệ tới ngay cửa biển. Lại cử Nguyễn Bá Nghi tạm thời tăng bổ lãnh chức Bố chính Quảng Nam, Phó vệ úy Nguyễn Nghĩa Thịnh làm Lãnh binh, cùng nhiều võ quan tăng viện. Lại sai 4 thuyền bọc đồng tới cửa Trà Sơn để xa làm thanh ứng. Lệnh "đánh giết không để sót mống nào." Lại ngăn cấm những người theo đạo Gia tô không được lui tới để tuyệt tăm hơi. (103)

 

Nào ngờ, xuất đội Võ Văn Điểm, một giáo dân Ki-tô, ngầm báo cho Pháp. Bởi vậy, Lapierre vờ hòa hoãn, rồi đột ngột bắn phá các pháo đài Nguyễn. Năm thuyền đồng "đại hiệu" bị đánh đắm. Hơn 100 người bị chết, kể cả hai đại quan. Mười năm sau, Giám mục Huế tường trình trước Ủy Ban Cochin-Chine rằng quan Việt mưu tổ chức một bữa tiệc khoản đãi sĩ quan Pháp, rồi phục kích; bởi thế, Lapierre mới ra tay. Cuénot (Thể), Giám mục Qui Nhơn, thì cho rằng cuộc bắn phá này nhằm trả đũa âm mưu bắt cóc sĩ quan Pháp. (104) Lý do nào đi nữa, hải pháo Pháp chính thức dập tắt tiếng đàn hát Ngu-Thuấn, cắt đứt cảnh "trong thì nhân dân nhảy múa mừng Xuân, ngoài thì phương xa lặn lội đến cống" dưới triều Thiệu Trị. (105)

Cái chết đột ngột của Thiệu Trị it tháng sau trút mọi gánh nặng di sản lên vai Tự Đức. Tuy nhiên, mãi tới năm 1851 Tự Đức mới áp dụng các biện pháp do Thiệu Trị đề xướng–tức bắt giết giáo sĩ người Âu, và tập trung giáo dân vào những vùng xa duyên hải. Bá tước Roussel de Courcy, chánh văn phòng đại biện Pháp ở Yên Kinh, bèn được lệnh tập trung và phân tích các khiếu nại của giáo sĩ để Paris có biện pháp thích ứng.

Dẫu vậy, Paris vẫn muốn cho Tự Đức thêm một cơ hội–qua việc gửi Charles de Montigny, thuộc Nha Thương Mại, cựu lãnh sự Thượng Hải, đến Bangkok và Huế thảo luận hoà ước. Ngày 9/7/1856, Montigny tới Bangkok, và vua Xiêm đồng ý gửi sứ qua Pháp. Nhưng khi Montigny ghé Kampot đón thông ngôn, Giám mục Jean Claude Miche (1805-1873) dàn xếp cho Montigny gặp Ang Duong. Trong khi đó các sĩ quan hải quân có vẻ đồng ý với các giáo sĩ rằng Tự Đức chỉ còn nghe được tiếng đại bác, đưa chiến hạm Catinat vào Đà Nẵng, chuyển thư Montigny. Khi các quan Nguyễn không nhận, ngày 19/9/1856, hạm trưởng William Lelieur de Ville-sur-Arce sai một toán quân đổ bộ lên Thuận An, đặt thư trên bãi biển. Một tuần sau, pháo kích đồn lũy Đà Nẵng, cho 1 trung đội đổ bộ lên bờ. Giữa lúc này, tình hình Trung Hoa bỗng căng thẳng. Đề Đốc Guérin cho lệnh tàu Catinat lên tăng viện. Hơn một tháng sau, ngày 24/10, thuyền buồm Capricieuse của Collier vào vịnh Đà Nẵng. Đại diện Hội truyền giáo ở Huế, tức Pellerin–người ít nhiều liên hệ đến việc bắn phá Đà Nẵng–lên tàu này về Pháp vận động. Ba tháng sau, Montigny tới Đà Nẵng và, dĩ nhiên, không đạt được hoà ước. Ngày 7/2, Montigny bỏ dở sứ mệnh, để lại một đòi hỏi 22 điều. (106)

Mùa Hè 1857, giữa lúc triều đình Napoléon III đang thảo luận việc biểu dương lực lượng, các Đề đốc Pháp lại có cơ hội ra oai. Ít nhất hai chiến thuyền Pháp và Espania kéo tới duyên hải Đại Nam sau khi José Maria Diaz Sanjuro (tên Việt là Cố An)–Khâm mạng tòa thánh tại miền Bắc, giám mục Đàng Ngoài Giữa (Bùi Chu)–bị bắt vào tháng 5/1857 rồi xử tử 2 tháng sau. Được thư cấp cứu của Lãnh sự Espania từ Ma Cao, ngày 4/9/1857, Nam tước Gros, đại sứ Pháp ở Yên Kinh, sai Rigault de Genouilly cho tàu CatinatLilly (của Portugal cho Espania thuê) đưa Bá tước De Kleczkowski qua Đại Nam xin tha Diaz. Tài liệu nhà Nguyễn ghi ngày 8/9/1857, hai tàu Tây dương hạ neo tại hải phận Quảng Bình, và khoảng 30 người đổ bộ lên bờ, cướp trâu bò, lợn gà, tìm người theo đạo Thiên chúa. Sau đó, ra Bắc, tìm giáo sĩ và giáo dân. (107)

 

Điểm đáng ghi nhận là vào thời điểm này, cả ba giới giáo sĩ, sĩ quan hải quân và thương mại–dù có những dị biệt về quan điểm và được thúc đẩy bởi những động lực khác nhau–đã tìm được những điểm tương cận trong chính sách đối với Việt Nam. Hai trong những mẫu số chung thời thượng là uy danh nước Pháp và bảo vệ các nhà thừa sai. Và, phương tiện là một cuộc biểu dương lực lượng uy hiếp triều Huế. Nhưng những yêu sách của Pháp không chỉ thuần túy có tự do truyền giáo. Bên cạnh, dù phụ thuộc hay chính yếu, còn điều kiện cắt đất và bồi thường chiến phí. Thực thể sần sùi, tanh máu này thường bị tảng lờ hay che dấu khá kỹ với những bảng hiệu rực rỡ như "bảo vệ tự do tín ngưỡng" hay "màu cờ, sắc áo." Và, hai đòi hỏi rất thế tục trên khiến chiêu bài "khai hóa" cao thượng của Pháp chẳng những khó hiểu mà còn gây phẫn nộ trong hàng ngũ vua quan Việt.

 

Vũ Ngự Chiêu

[Trích: Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945]

 

Phụ chú:

34. Thông tin về Rhodes cùng các giáo sĩ Tây phương hầu hết dựa vào tác phẩm của Rhodes như Histoire du royaume du Tonkin et des grands progrès que la prédication y a fait en la conversation des infidèles depuis l’année 1627 jusqu’à l’année 1646, do Albi dịch từ tiếng Portuguese qua tiếng Pháp (Lyon: 1651), và Divers voyages et missions du Père Alexandre de Rhodes en la Chine et autres royaumes de l’Orient, avec son retour en Europe par la Perse et l’Aménie (Paris: 1654). Xem thêm, Tường trình về Đàng Trong 1645, bản dịch Hồng Nhuệ (Escondido, CA: 199?). Về những nhận định trái ngược nhau quanh Rhodes, xem Giu-se Vũ Thành, Dòng máu anh hùng, 3 tập (Franklin, LA: 1987), I:260, và Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư, 1954-1963 (Tacoma, WA: 1998). Sẽ dẫn: Thành 1987, Quang 1998. Tư liệu Việt không nhắc đến Rhodes.

35. Vì lý do chính thống, sử Nguyễn ghi là từ đời Lê Trang Tông (1533-1548); KĐVSTGCM, 41:25; 1998, II:626-627. Theo sách Dã Lục, Y-nê-xu giảng đạo tại xã Ninh Cường, Quần Anh, và Trà Lũ huyện Giao Thủy [Nam Định] năm 1533, tức đầu niên hiệu Nguyên Hòa; q. 33, 5-6; II:300-301.

36. Đã có quá nhiều tài liệu về Pigneau, với lời xưng tụng như Pigneau là "vua thực sự Đàng Trong." Xem H. Cosserat, "Notes biographiques sur les francais au service de Gia Long;" BAVH, IV, no. 3 (7-9/1917), tr.165-206; Léonard Cadière, "Les Francais aux service de Gia Long: XI. Nguyen Anh et La Mission, Documents inédits;" BAVH, XIII, no. 1 (1-3/1926), tr.1-49. Cosserat sử dụng tài liệu văn khố Hội truyền giáo, và Cadière so sánh tài liệu truyền giáo với tư liệu Việt Nam. Trong Châu Bản Tự Đức có một sưu tập những thư của Gia Long gửi các nhà truyền giáo này. Cuối thế kỷ XIX, xuất hiện ở Đại Nam tập Annales annamites [Sử Ký Đại Nam Việt] (Sài-gòn: Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa, 1974) về Pigneau. Tài liệu nhà Nguyễn ghi Pigneau qui phục Nguyễn Chủng từ năm Bính Tí (1780); Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, bản dịch Việt ngữ của Viện sử học Hà Nội (Huế: Thuận Hoá, 1993), tập II, tr. 476-477. [Sẽ dẫn ĐNCBLT]. Cần nhấn mạnh là sự đóng góp thực sự của Pigneau cho chiến thắng của Gia Long rất giới hạn. Khối thông tin truyền giáo và thuộc địa Pháp, như Wooside nhận định, đã thổi phồng quá đáng vai trò và tầm quan trọng của Pigneau cùng đệ tử [the role of the Chaigneaux and Oliviers and Behaines in Vietnamese history has been grossly exaggerated. Financial and judicial and political and administrative and educational matters in the Gia Long period never concerned the French. They were encouraged to live in Hue merely to give military advice and to serve as a shield against others of their kind who might go to Vietnam seeking trade. . . .]; Idem, Chinese Model, 1971:16-17.

37. ĐNCBLT, I, 2:49-50, 98; SHAT (Vincennes), 10H 1, d. 3; AMAE (Paris), Mémoires et Documents, Asie, vol. 19, tr. 103 & vol. 21, tr. 64; CAOM (Aix), GGI [Amiraux], 11704. Xem thêm đoạn III của chương này.

38. AMAE [Paris], Correspondances générales, vol. VII, tr. 662; Georges Taboulet, La geste francaise en Indochine: Histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, 2 tập (Paris: Maisonneuve, 1955-1956), I:191-194, 208-209. Trong thư gửi de Conway và d’Entrecasteaux, de Montmorin khẳng định Conway được tùy nghi hành động.

39. ĐNTLCB, I, 2:57-58, 61; Thư ngày 25/1/1785, Nguyễn Ánh gửi Jacques Liot, trong Cadière, "XI. Nguyen Anh et la Mission;" BAVH, XIII, no. 1 (1-3/1926), tr. 20-21.

40. ĐNTLCB, I, 2:62-63, 70-71, 72; KĐVSTGCM 1998, II:786, 837-838; Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Ngụy Tây, bản dịch Tạ Quang Phát (Sài Gòn: 1970), tr. 30B [125] [sẽ dẫn: Liệt truyện]. Thực ra, người thống nhất Đại Việt là Trịnh Sâm, vào năm 1775. Vương quốc Đại Việt của Quang Trung (1788-1892) chỉ gồm lãnh thổ cũ của nhà Lê. Lãnh thổ của Thái Đức (Nguyễn Nhạc) kéo dài từ Nam Quảng Nam vào đồng bằng Cửu Long, nhưng từ năm 1788, Nguyễn Chủng đã chiếm Nam Kỳ. Vì chiến công này, các vua Nguyễn khẳng định nhà Nguyễn đã lấy đất nước từ Tây Sơn, không cướp ngôi nhà Lê. Phần Pigneau, khi cặp bến Port Louis, Isle de France, năm 1788 mới được tin Nguyễn Huệ diệt họ Trịnh, rồi gây nên cuộc tương tàn; Taboulet, La geste francaise, I:207.

41. ĐNTLCB, I, 2:53-54 [Nguyễn Văn Tồn], 65-66, 67, 68-69, 72, 73, 90-91; ĐNCBLT, II:471-76, 477-78; Woodside 1971:17-18. Xem thêm thư ngày 19/1/1789, Nguyễn Chủng gửi Jacques Liot; L. Cadière, "Nguyễn Ánh et la Mission;" BAVH, XIII, 1, 1926: 47-48. Thư này được chép lại ngày 19/6/1827 (25/5 MM VIII)

42. ĐNCBLT, q. 30; (1970), 13B-14B [tr. 60-62]. Liệt Truyện ghi việc này vào cuối năm 1786, sau khi Nhạc đã xưng đế, phong đất cho hai em, trước ngày Chủng từ Xiêm về nước lần thứ hai; Ibid., q. 30, tờ 13B-14A. Theo Thực Lục, anh em Tây Sơn giao chiến từ tháng 7 năm Bính Ngọ (25/7-23/8/1786); ĐNTLCB, I, 2:63, 65. Các nhà truyền giáo ghi vào đầu năm Đinh Mùi (18/2-18/3/1787), Thư ngày 6/6/1787, Doussain gửi Le Blandin; BEFEO, 1912, tr. 19; Hoàng Xuân Hãn, Toàn Thư, II:1297. Theo các giáo sĩ, Huệ dùng từ 60,000 tới 100,000 quân vây thành Đồ Bàn; Thư ngày 6/6/1787, Doussain gửi Le Blandin; BEFEO, 1912, tr. 19; Thư ngày 3/5/1787, Longer gửi Boiret; RI, XIV, 1910, tr. 46; Thư ngày 21/5/1787, GM Jean de Labartette gửi Letondal; A. Launay, III:129; Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, 1771-1802 (Los Angeles: An Tiêm, 1991), tr. 148.

43. Launay, III:199.

44. ĐNTLCB, I, 2:98 [viet] I, q. 4, tr. 14-15 [nho]; ĐNCBLT, q.28, II:476; Thư ngày 17/8/1789, Pigneau (Sàigòn) gửi [Claude Francois] Létondal (Macao); ASME [Paris], vol. 801, tr. 283; Cadière, BAVH, 1926.

45. Thư ngày 31/3/1795, La Mothe gửi Letondal; ASME (Paris), Tonkin 692. Ngày 18/1/1792, Le Labousse viết thư báo cáo Girard đang phục vụ Tây Sơn từ năm 1791. Ngày 29/3, vợ Quang Trung chết, Girard hoặc vì hoảng sợ hoặc vì một lý do nào đó, bỏ trốn qua Macao; Thư ngày 25/11/1792, Guérard gửi Boiret; ASME (Paris), Tonkin 692, tr. 397-399. Từ Macao, ngày 25/11/1792, Guérard báo cáo khá đầy đủ về tình hình Phú Xuân trong hai năm 1791-1792; Ibid. Sau ngày Quang Trung từ trần (14/9/1792 tức cuối tháng 7 Nhâm Tí)–cái chết đầy bí ẩn, vì bị thần nhân đánh trọng thương trong giấc mơ do dám phá hủy lăng tẩm cho nhà Nguyễn, theo sử nhà Nguyễn; vì bị đầu độc trong tay các giáo sĩ hay nhà Thanh, theo lời đồn–các giáo sĩ ngả hẳn về phe "ông Chủng." Xem thêm thư ngày 6/6/1793, của Guérard viết từ Bố Chính gửi cho Boiret báo tin Nguyễn Nhạc đã chết; Ibid., tr. 426-429; và, thư ngày 13/12/1793 của La Mothe gửi Boiret; Ibid., tr. 539-541; Đặng Phương Nghi, "Triều Đại vua Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây phương;" Tạ Chí Đại Trường et al., Một vài sử liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ (Glendale, CA: Đại Nam, 1992), tr. 244; Idem., 1991:200-208ff.

46. ĐNTLCB, I, 2:331 [Pigneau], 386 [Cảnh]; ĐNCBLT, II:477, 48; QTCBTY 1971:35, 37 ; Annales, 1847. 19:268 ; ASME (Paris), vol 746, tr. 839.

47. Vũ Thành 1987, III:8-9. Theo một tác giả Pháp, năm 1800, số tín đồ Ki-tô tại Đại Việt như sau: 3 Giám mục, 15 cố đạo, 320,000 giáo dân; Louvet, tr. 207; Phan Phát Huồn 1960:269. (Giáo khu Đông Đàng Ngoài: 1 Giám mục, 4 cố đạo, 41 linh mục bản xứ, và 140,000 giáo dân; Giáo khu Tây Đàng Ngoài: 1 Giám mục (Jacques Benjamin Longer, 1752-1831), 6 cố đạo, 65 linh mục bản xứ, 120,000 giáo dân; Đàng Trong: 1 Giám mục (Le Labousse, chết ngày 28/5/1801), 5 cố đạo, 15 linh mục bản xứ, 60,000 giáo dân).

48. ĐNTLCB, I, 3:166-169; Phan Phát Huồn 1960, I:267-268.

49. Hoàng tử Đảm, tức Minh Mạng, chịu ảnh hưởng của Đặng Đức Siêu, gốc Bồng Sơn, Bình Định, nhưng lập nghiệp ở Hương Trà, Thừa Thiên, và Trịnh Hoài Đức (1760-1825), tổ tiên gốc Phúc Kiến. Xem ĐNCBLT, q. 10, II:173-179, và q. 11, II:186-192.

50. Mùa Hè 1672, khi mang vua Lê và 180,000 quân vào đánh Đàng Trong, Trịnh Căn trưng dụng cả các tay xạ thủ người Hòa Lan và Âu châu; Lê Quí Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, 1972, I:92-94; Quốc sử quán Nhà Nguyễn, Đại Nam Thực Lục, Tiền Biên [TB] (Hà Nội: 1962), 1:121.

51. Xem ĐNTLCB, I, 2:158, 194, 208, 264, 294. Xem thêm Cosserat, "Notes biographiques sur les francais au service de Gia Long;" BAVH, IV, no.3 (7-9/1917), tr. 165-206.

52. Sau này phụ trách thương mại cho chính phủ Philippines. Trở lại thăm Huế năm 1804. Chết trong một vụ đắm tàu ở Vịnh Bắc Việt năm 1809. Năm 1818, chính phủ Pháp in bộ bản đồ bờ biển Việt Nam của D’Ayot, với tựa Le Pilote de Cochinchine; Alastair Lamb, The Mandarin Road to Old Hue (London: Archon Books, 1970), tr. 179n1.

53. ĐNTLCB, I, 2:247, 423). Xem thêm thư ngày 11/4/1801, 16/4/1801, 16/7/1801, 15/6/1802, trong Cadière, "Les francais au service de Gia Long: XII. Leur correspondance;" BAVH, XIII, no. 4 (10-12/1926), tr. 373-416.

54. Theo sử Nguyễn, thành hình vuông, mỗi cạnh dài 131 trượng, 2 thước. Mở ra 8 cửa (bát quái). Tường cao 13 thước [ta], chân dày 7 trượng 5 thước. Phía ngoài thành là hào, hào rộng 10 trượng 5 thước, sâu 14 thước, có cầu treo bắc ngang. Chu vi ngoài thành là 794 trượng; ĐNTLCB, I, 2:112-113; Wooside, 1971:30. Tuy nhiên, không nhắc gì đến Olivier.

55. ĐNTLCB, I, 2:345, 355, 415, 423; QTCBTY 1971:28; Thư ngày 2/3/1801, Chaigneau gửi Barisy; Cadière, "XII. Leur correspondance;" BAVH, XIII, no. 4 (10-12/1926), tr. 372-373; Thư ngày 11/4/1801, Barisy gửi Letondel; Ibid., tr. 359-447; Cosserat, "Notes biographiques;" BAVH, IV, no.3 (7-9/1917), tr. 183-186.

56. ĐNTLCB, I, 3:131, 218, 4:183; ĐNCBLT, II:477; QTCBTY, 1971:35. Ngày 12/11/1811, Vannier lập gia đình với một người Việt, Nguyễn Thị Sen hay Magdeleine Sen, con gái Nguyễn Văn Dũng, Thuyền tả cai đội, một giáo dân Ki-tô ở Phường Đúc, hay Thợ Đúc. Năm 1824, Vannier đưa vợ con về nước và chẳng bao giờ trở lại. Ngày 5/10/1863, vợ và con gái Vannier từ Lorient tới thăm sứ đoàn Phan Thanh Giản. Thị Sen (Liên) nhắc lại chuyến thăm đột ngột của Tôn Thất Thường (Văn Liễu) và Dũng năm 1840 hoặc 1841. Ngày 7/10, trở lại dự tiệc với con trai, con gái. Mặc quốc phục. Trần Xuân Toạn (dịch), "L’Ambassade de Phan Thanh Gian, (1863-1864);" BAVH, 1921, tr. 174-176, 178-180 [147-187]. Xem thêm "Documents A. Salles, III: Philippe Vannier;" BAVH, XXII, No. 2 (Avril-Juin 1935), tr. 159.

57. Thư ngày 3/6/1819, Chaigneau gửi Baroudel (Macao); Cadière, "XII: Leur correspondance;" BAVH, XIII, no. 4 (10-12/1926), tr. 422-423á; Thư ngày 15/6/1819 Vannier gửi Baroudel (Macao); Ibid., 423-425; "Cochin China;" The Northern American Review (Jan 1824), tr. 145. Xem thêm Nguyên Vũ, "Góp phần nghiên cứu về Petrus Key;" Ngàn Năm Soi Mặt (Houston: Văn Hóa, 2002).

58. ĐNTLCB, II, 7:79, 8:86.

59. Gaudart, "Les archives de Pondichéry et les entreprises de la Compagnie Francaise des Indes en Indochine, au XVIIIè siècle;" BAVH, XXIV, no. 4 (10-12/1937), tr. 355 [353-380]; A. Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine, II:344, 345; H. Cosserat, "La route mandarine de Tourane à Hué;" BAVH, VIII, no. 4 (1-3/1920), pp. [1-27];

60. ĐNTLCB, I, 2: 78, 86-87, 95, 106, 129, 137, 183, 251, 257; Mục lục châu bản triều Nguyễn, Tập I: Gia Long (Huế: Viện Đại học Huế, 1960), tr. 27; dẫn trong Đỗ Bang-Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, tập I (Huế: NXB Thuận Hóa, 1996), tr. 74; Cadière, "III. Leurs noms;" BAVH, VII, no.1 (1-3/1920).

61. Barizy kiếm được một tài sản khá lớn, khoảng 12,000 francs qua các dịch vụ này.

62. ĐNTLCB, I, 3:134. Miller, 1990:3-5. Xem thêm Vũ Ngự Chiêu, "Nguyễn Ái Quốc: Người Việt đầu tiên đến Mỹ?" Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 93 (tháng 2-3/2007), Phần I, tr. 5-38.

63. ĐNTLCB, I,3:193; Lamb, 1970:Part V; Cadière, "XI. Nguyễn Ánh et la Mission;" BAVH (Hà Nội), XIII, no. 1 (Jan-Mars 1926), tr. 1-49.

64. ĐNTLCB, I, 4:400.

65. John Barrow, A Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793 (London: Strahan & Restow, 1806).

66. ĐNTLCB, I, 2:269, 282; 3:134.

67. ĐNTLCB, I, 3:348-9; 4:157; thư ngày 18/9/1803, La Bartette gửi Chaumont (Paris); Cosserat, "Notes biographiques;" BAVH, IV, no.3 (7-9/1917), tr. 183-186.

68. ĐNTLCB, I, 3:131. Từ tháng 7/1818 tàu ngoại quốc muốn nạp thuế cảng và thuế hàng hóa bằng loại tiền nào cũng được; Ibid., 4:352. Từ đầu năm 1819, tiền "ba lễ" và tiền cai tàu được giữ ở kho dinh Bắc thành và Gia Định thành, cuối năm chia cho các quan; Ibid., 4:364-365. Về sinh hoạt buôn bán ở Gia Định thành năm 1819, dưới mắt một Thiếu tá hạm trưởng Mỹ, xem John White, History of A Voyage to the China Sea (Boston: Wells & Lilly, 1823; reprint London, 1924, 1972); bản dịch Pháp ngữ của P. Midan, "Les Européans qui ont vu le vieux Hué: John White;" BAVH (Ha Noi), XXIVè année, nos. 2-3 (Avril-Sept 1937), tr. 93-322; "Cochin China;" The North American Review, vol 18, no. 42 (Jan 1824), pp. 140-157; Miller, 1990:6-14. Tuy nhiên, báo cáo của White có vài ba thiếu sót quan trọng. Thí dụ như White không nhắc gì đến cái chết của Tổng trấn Nguyễn Huỳnh Đức, và Hữu quân Nguyễn Văn Nhân lên thay trong dịp White ở Sài Gòn; ĐNTLCB, I, 4:390-391. Tổng trấn Gia Định mà White được gặp cũng không thể là Chưởng Tả quân Lê Văn Duyệt. Duyệt chỉ được cử làm Tổng trấn nhiệm kỳ hai (1820-1832) khoảng nửa năm sau ngày White rời Sài Gòn, và tới Gia Định khoảng ngày 28/8/1820 [20/7 Canh Thìn]; Ibid., 4:398; Mục lục Châu Bản triều Nguyễn, tập II: Minh Mạng [MLCBMM], Cheng ch’ing-ho [Trần Kính Hòa], Nguyễn Phương, et al. dịch (Huế: Đại học Huế, 1962), CB 1:56; tr. 12.

69. Woodside, 1971, tr. 261ff.

70. Thư ngày 31/1/1790 [17/12 Kỷ Dậu], Nguyễn Ánh gửi vua Pháp, bản dịch của Pigneau de Béhaine; Service historique de la Marine [SHM], (Vincennes), GG2-44, carton 3, d.1; và Archives du Ministère des Affaires Etrangères [AMAE] (Paris), Mémoires et Documents, Asie, vol 64, tờ 21. Về Hoà ước 1787, xem CAOM (Aix), GGI [Amiraux], 11704. Mặc dù năm 1857, Giám đốc chính trị Bộ HQ & TĐ Cintrat đã nhắc đến lá thư quan trọng này, các nhà truyền giáo hầu như im lặng. Nó là một trong những nguyên do khiến Pigneau đôi lần muốn bỏ đi, và một số lính đánh thuê rời Đại Việt trong thời gian 1791-1793.

71. Thư ngày 28/7/1821, Frédéric Despiau gửi Baroudel (Macao); L. Cadière, "Leur correspondance;" BAVH, XIII, No. 4 (Oct-Dec 1926), tr. 428-429, & Thư ngày 2/8/1821, Vannier gửi Baroudel, Bề trên [Procureur] Hội truyền giáo ở Manila; Ibid., tr. 429-432 & Documents A. Salles, III: Philippe Vannier; Ibid., XXII, No. 2 (Avril-Juin 1935), Tài liệu 36, tr. 146. Xem thêm thư ngày 10/10/1821, Chaigneau gửi Antoine Breluque (Paris); BAVH, XIII, No. 4 (Oct-Dec 1926), tr. 432-433; thư tháng 12/1821, Chaigneau gửi de la Bissachère, Ibid., tr. 434-435; Michel Đức Chaigneau, Souvenirs de Huế (Paris: Imprimerie impériale, 1867), tr. 240.

72. ĐNTLCB, II, 7:101 [tháng 12 Giáp Thân]. Ngày 17/2/1825, chiến hạm Thétis L’Espérance rời Tourane.

73. ĐNTLCB, II, 8:86.

74. Thư ngày 12/11/1834, Cuénot (Bangkok) gửi các Giám đốc (Paris): "Documents A. Salles, III: Philippe Vannier;" BAVH, XXII, No. 2 (Avril-Juin 1935), tài liệu 60, tr. 150.

75. ĐNTLCB, II, 6:85-86; BAVH, X, no. 1, 1923:89; CMMM, CB 1:211-212, 214-215; MLCBMM, II, 1962:48, 49. Xem, John Crawfurd, Journal of An Embassy from the Governor General of India to the Courts of Siam and Cochinchina (London: 1830); George Finlayson, Mission to Siam and Hue, the Capital of Cochinchina, in the Years 1821-1822 (London: 1826). Thư ngày 23/5/1823, Chaigneau gửi [JJ Louis] Baroudel (Macao); Cadière, "XII. Leur correspondance;" BAVH, XIII, no. 4 (10-12/1926), tr. 439-440. Ngày 31/10/1822, Crawfurd rời Việt Nam. Nhận định về Việt Nam, Crawfurd cho rằng thư lại, giấy tờ quá nhiều, trong khi ở Syam người ta ít khi viết điều gì xuống giấy trắng mực đen. So với Trung Hoa, thương mại Việt Nam quá kém cỏi. Phần Y sĩ George Finlayson, người Scottish, đặc biệt kính phục nền văn minh Việt. Tuy nhiên, Finlayson cũng ngạc nhiên khi thấy một dân tộc đông đảo như thế mà nền thương mại lại quá giới hạn ; Woodside, 1971:30. Xem J. H. Peysonneaux, "Vie, Voyage et Travaux de Pierre Médard Diard;" BAVH, XXII, no. 1 (1-3/1935), tr. 47-50.

76. ĐNTLCB, II, 6:252-254; Crawfurd, Jounal of An Embassy, 1830: Phụ bản sứ đoàn Gibson; Wooside, 1971:239; Peysonneaux, "Pierre Médard Diard;" BAVH, XXII, no. 1 (1-3/1935), tr. 51-56.

77. ĐNTL,CB, II, 11:231; Léon Sogny, "Notulettes: II. Une mission américaine en Annam sous Minh Mang;" BAVH, XXIV, No. 1 (Jan-Mars 1937), tr. 64-66; Miller, 1990:19-40.

78. ĐNTLCB, II, 22:294-295.

79. ĐNTLCB, II, 17:25-26.

80. ĐNTLCB, II, 8:75, 94-96, 99, 20:139; 21:227.

81. ĐNTLCB, II, 8:99, 132, 250, 21:100-102, 22:222-224.

82. ĐNTLCB, II, 8:97, 14:90-91; 22:216-217.

83. ĐNTLCB, II, 6:83,146 (1823), 7:105 (1825), 7:237 (1826), 9:162 (1829), 10:145 (1830), 10:386 (1831), 11:247 (1832), 19:302 (1838), 20:247-250 (1839), 21:227-229 (1840), 22:328 (1840); Thư ngày 16/2/1834, Taberd (Xiêm) gửi Barantin, Giám đốc truyền giáo Singapore; "Documents A. Salles, III: Philippe Vannier;" BAVH, XXII, No. 2 (Avril-Juin 1935), Tài liệu 58, tr. 149; Thư ngày 12/11/1834, Cuenot (Bangkok) gửi các Giám đốc (Paris): Ibid,. tài liệu 60, tr. 150; Thư ngày 17/3/1835, Cuenot (Singapore) gửi các Giám đốc (Paris): Ibid,. tài liệu 64, tr. 153; Thư ngày 6/6/1835, Gilles de La Motte (Nhu Ly) gửi các Giám đốc (Paris) ; Ibid,. tài liệu 61, tr. 150-151; Thư ngày 29/9/1835, Jaccard (Cam Lộ) gửi Vannier, Ibid,. tài liệu 62, tr. 151-152.

84. ĐNTLCB, II, 6:252, 7:175, 8:66, 258.

85. ĐNTLCB, II, 6:83.

86. ĐNTLCB, I, 4:396, 13:336-410, 14:6-20, 26-29, 32-51. Vì di chúc của Gia Long, Minh Mạng nhiều lần hòa hoãn với Xiêm. Năm 1827-1828, chẳng hạn, Minh Mạng phó mặc Chao Anu [A Nỗ]–vua Vạn Tượng [Vientianne] từ 1804 tới 1829, thường được coi như anh hùng đấu tranh giành độc lập, thống nhất của Lào–cho Xiêm bắt làm tù binh, rồi thảm sát ở Bangkok đầu năm 1829. Người giao nạp Anu cho quân Xiêm là Chiêu Nội, tù trưởng Trấn Ninh; bị Minh Mạng sai bắt giết năm 1830; Ibid., II, 6:167; 8:260, 273; 10:20, 69. Xem thêm Mayoury Ngaosyvathn & Pheuiphanh Ngaosyvathn, Paths to Conflagration: Fifty Years of Diplomacy and Warfare in Laos, Thailand, and Vietnam, 1778-1828 (Ithaca: Cornell, SEAP, 1998). Một tác phẩm xuất sắc về Anu, sử dụng tài liệu Thái và Lào. Phần tư liệu Việt có chỗ thiếu sót. Xem thêm Dụ của Minh Mạng gửi Tổng trấn Lê Văn Duyệt, thường được các tác giả thế giới gọi là "Phó vương" [Vice-Roi]. (Dưới triều Gia Long và Thiệu Trị, không hề có chức vụ "Phó vương" này).

87. ĐNTLCB, III, 26:369.

88. ĐNTLCB, III, 26:369-374; Ibid., IV, 27:68.

89. ĐNTLCB, III, 23:115 (1841), 24:424 (1843), 447-448 (1844), 25:183 (1844). Tháng Giêng năm Giáp Thìn [18/2-18/3/1844] mới ra biển thao diễn ở mặt nước, trước khi khởi hành.

90. Dưới triều Tự Đức xảy ra nhiều vụ án khiến nhức đầu những người nghiên cứu về luật pháp tại Việt Nam. Ngoài vụ án Cao Bá Quát, còn những vụ án của Đào Trí Phú hay Hường Bảo. Mặc dù từ tháng 7/1848, Trí Phú bị mất chức–vì lý do nào đó–Phú còn bị buộc vào vụ Hường Bảo tư thông ngoại quốc và Lê Duy Huân, cháu Lê Duy Cự, minh chủ "loạn cào cào hay châu chấu." Tháng 1-2/1854, Phú bị lăng trì xử tử vì là đồng phạm trong việc Hường Bảo "mưu làm phản, mưu ngầm thông với Tây dương;" ĐNTLCB, IV, 27:106, 28:9-10. Tháng 6/1859, sau khi tra xét giặc Lê Duy Huân– tức Hòa, con Duy Đạo, cháu Duy Cự, Duy Uân ở Sơn Tây–Bùi Quĩ lên án Mỹ, con Phú, Thành, con Hồ Đình Hỷ, Nhạ, con Cao Bá Đạt, Phùng, con Cao Bá Quát, đều phò Duy Huân. Vua cho lệnh điều tra kỹ, vì chẳng biết đâu là sự thực. Tuy nhiên, vẫn treo giải thưởng bắt Mỹ, Thành, Nhạ, Phùng; Ibid., 29:43].

91. ĐNTLCB, III, 24: 371-372, 424-425, 26:14.

92. ĐNTLCB, 27:106. Xem thêm chi tiết trong chương III.

93. ĐNTLCB, 27:117-118. Dẫu vậy, ba năm sau, nhân dịp đưa một quan Thanh bị đắm tàu về nước, tháng 3/1851, Tự Đức sai bọn Lê Bá Đĩnh chất thổ sản lên thuyền Thụy Hồng để trao đổi hàng hóa Tây phương. Khi Các thần Mai Anh Tuấn dâng sớ can ngăn, vua giận, đòi đánh đòn. Trương Đăng Quế và Lâm Duy Thiếp can ngăn không được, Tuấn vẫn bị cách chức; bổ làm án sát Lạng Sơn, cách lưu làm việc, và bị thổ phỉ bắn chết ít tháng sau; Ibid., IV, 27:272-273, 278-279.

94. SHM (Vincennes), GG2 44, Carton 3.

95. ĐNTLCB, III, 26:388-389. Bri-tên còn cử sứ đoàn Bowring tới Đà Nẵng vào tháng 9/1855 và một phái đoàn khác năm 1857; nhưng cũng không thành công.

96. Miller, 1990:48-53; ĐNTLCB, IV, 27:215; TTLTTƯ 2 (TP/HCM), CBTĐ, 24/1 TĐ III, CB 156:239-242; dẫn trong Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ Quang Phát, Châu Bản Triều Tự Đức (1848-1883) (TP/HCM: Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, 2003), tr. 30.

97. Thư ngày 12/2/1778 & 15/2/1778, Chevalier (Chandernagor) gửi De Bellecombe (Pondichéry); Gaudart, "Les archives de Pondichéry et les enterprises de la Compagnie Francaise des Indes en Indochine au XVIIIè siècle;" BAVH, XXV, no. 4 (10-12/1937), tr. 364-366, 368-370.

98. Hơn nửa thế kỷ sau, tại các phiên họp của Ủy Ban Cochinchine, de Conway vẫn chưa được giải oan! Vì lý do nào đó, Cintrat không đề cập gì đến những chỉ thị của Louis XVI cho de Conway, qua Ngoại trưởng Walewski.

99. Vannier xuống chiến hạm Cybèle gặp. Chaigneau dịch hai lá thư của de Kergariou, nhưng Gia Long từ chối tiếp kiến, nêu lý do không có quốc thư; ĐNTLCB, I, 4:336-337; MLCBGL, tr. 196-197; AMAE (Paris), Mémoires et documents, Asie, vol. 27, tr. 136-137; Đỗ Bang-Nguyễn Minh Tường, 1996:75. Theo Tsuboi, nêu lý do vua bệnh, tr. 94-95. Lamb ghi de Kergariou tới Tourane ngày 30/12/1817, tr. 229. Có lẽ Lamb sử dụng tài liệu của Pierre de Joinville [1914] và Cordier [T’oung Pao, 1904 và 1908]). Ngày 22/1/1818, de Kergariou rời Tourane. Về tới Brest vào tháng 10/1818. [18/6/1815: Napoléon thua trận Waterloo. Bị lật đổ. Dòng họ Bourbons trở lại].

100. ĐNTLCB, II, 10:181-183; Thư ngày 25/6/1822, Chaigneau gửi Baroudel; BAVH, Xè, no. 1 (1923), tr. 87; Thư ngày 20/7/1822, Vannier gửi Baroudel (không nên trở lại gặp Minh Mạng; vua không ưa Ki-tô giáo và chỉ chờ cơ hội bài đạo); Cadière, "XII: Leur correspondance;" BAVH, XIII, no. 4 (10-12/1926), tr. 438-439.

101. SHM (Vincennes), GG2 44, Carton 3 [Tuyên bố ngày trong phiên họp thứ ba của Ủy Ban Cochinchine vào tháng 5/1857].

102. ĐNTLCB, III, 23:397, 24:288, 25:173-174. (Guizot làm Bộ trưởng Ngoại giao từ ngày 29/10/1840 tới 24/2/1848).

103. ĐNTLCB, IV, 26:243-5.

104. ĐNTLCB, 26:79, 243-245, 255-256; AMAE (Paris), Mémoires et documents, Asie, hộp 27-bis; SHM (Vincennes), GG2-44, carton 3; Nguyên Vũ, Paris Xuân 1996, tr. 210-211; Abbé Chevroton, Vie de Mgr. Cuénot (Paris: 1870), tr. 234-235. Xem thêm Gosselin 1904:123.

105. ĐNTLCB, III, 26:329.

106. ĐNTLCB, IV, 28:294, 296, 307 [Montigny], 309 [Montigny bỏ đi], 313 [Đào Trí xin tu sửa phòng lũy]; LTTƯ 2, CBTĐ, 3/1 TĐ X, 1-2, CB 190:1-2; & 6/1 TĐ X, 1-2, CB 190:3-4 [2003:48]; SHM (Vincennes), GG2 44, Carton 3; Louvet II:256; Milton E. Osborne, The French Presence in Cochinchina and Cambodia, Rule and Response (1859-1905) (Ithaca, NY: Cornell Univ Press, 1969), tr. 27-28. Sẽ dẫn: Osborne 1969.

107. ĐNTLCB, IV, 28:340, 361; TTLTTƯ II (TP/HCM), CBTĐ, 29/8 TĐ X [6/11/1857], 8-9, CB 210:95-97; Cao Huy Thuần, 1990:49-50; Nguyễn Xuân Thọ 1995:20.

 

Copyright 2007, by Chieu Ngu Vu & Van Hoa Publishing Co. All Rights Reserved.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12401)
(Xem: 10976)
(Xem: 11013)
(Xem: 10583)
(Xem: 9943)
(Xem: 9372)
(Xem: 10133)
(Xem: 11180)
(Xem: 10834)
(Xem: 10925)