- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NHỮNG ĐẠO DIỄN ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM CHƯA ĐƯỢC NGẬM CƯỜI NƠI CHÍN SUỐI

21 Tháng Bảy 202211:32 SA(Xem: 7830)



Mai An Nguyễn Anh Tuấn     

NHỮNG ĐẠO DIỄN ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM
CHƯA ĐƯỢC NGẬM CƯỜI NƠI CHÍN SUỐI 
 
 

(Tâm sự với một thí sinh thi trượt năng khiếu Điện ảnh)   

 


I. “BỘ PHIM LÀ MỘT BÀI THƠ ĐƯỢC VIẾT BẰNG ÁNH SÁNG”

Tôi hiểu nỗi thất vọng, sự đau lòng của em sau đợt thi năng khiếu chuyên ngành đạo diễn vừa rồi; và mọi lời an ủi lúc này là vô nghĩa. Tôi chỉ có đôi dòng tâm sự may ra có thể giúp em bình thản lại, dù lúc này có thể một số người thân gia đình em đang bĩu môi: “Ai bảo cứ khích nó đi vào cái nghề "chân không tới đất cật không tới trời", mơ mộng viển vông! Kỹ sư, bác sĩ còn chẳng ăn ai, nữa là cái nghề “đào giếng” (nhại vui cách nói của người miền Trung Trung Bộ)…

Nửa năm trước, thấy em mê điện ảnh, lân la hỏi han về những gì liên quan tới điện ảnh, tôi nói chơi: “Thế thì em thử thi vào ĐẢ đi!” Không ngờ, điều đó thổi bùng lên trong em ngọn lửa khát vọng vốn âm ỉ bao lâu nay; em dẹp bỏ ước vọng tiếng Nhật, tiếng Hàn cùng hàng đống sách ngoại ngữ để tìm xem các phim kinh điển thế giới - trước hết là 100 tác phẩm điện ảnh xuất sắc nhất mọi thời đại do chính những người đang làm việc tại Hollywood lựa chọn, rồi sau đó là các phim do tôi đề xuất cho em xem với tư cách là người tự phát hiện ra năng khiếu của mình trước khi đi tham dự năng khiếu của trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội…

Dù tôi đã báo trước nhiều nỗi gian truân khốn khổ của người làm ĐẢ, nhất là làm ĐẢ ở nước ta, với trải nghiệm của riêng tôi và một số đồng nghiệp- những kẻ vẫn tự trào là “sinh ra nhầm địa lý” với nghề nghiệp này, dù đã báo trước là nền ĐẢ nước nhà như ngôi đền hoang phế từng bị những người có trách nhiệm như Liên hiệp Điện ảnh phá nát, còn hiện giờ bị phim “mỳ ăn liền” và phim “móc túi khán giả” bằng mọi giá lấn át; song tất cả những điều đó lại tựa “lửa đổ thêm dầu” đối với em…

Nếu vậy thì sự thất bại vừa qua của em - nếu như muốn nói là “thất bại”, chẳng có chút nghĩa lý gì ư? Nghề nghiệp mà em mơ ước thực ra vẫn ở trong tầm tay em - trước hết là trong chính đáy sâu tâm hồn em đã bắt đầu nóng bỏng thứ ngôn ngữ của Nàng Tiên thứ Bảy. Đừng làm như một số bạn viết trên Phây đòi Ban GK phải công bố số điểm thi, thậm chí đòi phúc khảo… Tôi không trong Ban GK và cũng chẳng hề biết ai làm GK kỳ này, có thể đoan chắc với em rằng: các thầy GK cũng như tôi, hết sức trân trọng lòng đam mê ĐẢ của các em song cũng rất công bằng, phải nói là rất sòng phẳng trước năng khiếu buổi đầu của các em. Và cuộc thi này cũng là một cuộc “thử thách” nho nhỏ nhưng khá quan trọng ở chỗ: xem cái khát vọng kia của em có phải là “lửa rơm” chốc lát hay là một cái gì thật sự âm ỉ, dữ dội, để có khả năng theo đuổi sự nghiệp gian nan suốt một đời…

Cái gian nan, thậm chí khốn khổ khốn nạn, cả những sự bất công tồi tệ trong ngành cùng bao nỗi cay đắng tôi phải chịu đựng, tôi sẽ tiếp tục kể cho em nghe - nếu em không bị lụi tắt ước vọng… Khi đó, nếu em vẫn không nhụt chí, tôi có thể vui mừng mà giang tay đón chào em như một đồng nghiệp tương lai! Còn bây giờ, xin chép tặng em mấy câu sau đây làm hành trang đầu đời - đầu nghề:

BỘ PHIM LÀ MỘT BÀI THƠ ĐƯỢC VIẾT BẰNG ÁNH SÁNG (René Clair, đạo diễn điện ảnh Pháp).

TÔI LÀ MỘT NHÀ THƠ SỬ DỤNG MÁY QUAY NHƯ MỘT PHƯƠNG TIỆN ĐỂ ĐI ĐẾN NHỮNG ƯỚC MƠ (Jean Cocteau, đạo diễn điện ảnh Pháp).

 

II. THÂN PHẬN LONG ĐONG BI THẢM CỦA ĐẠO DIỄN HUY VÂN

Đạo diễn Huy Vân và đạo diễn Roman Karmen
Đạo diễn Huy Vân và đạo diễn Roman Karmen

 

Nhiều năm qua, tôi lặng lẽ tìm hiểu về cuộc đời của những nhà điện ảnh VN thế hệ đầu tiên, trong đó, bi thảm nhất có lẽ là đạo diễn Huy Vân. Tôi có ý định sẽ làm một phim chân dung về đạo diễn này, khi có điều kiện; nhưng vì nỗi thất vọng của em, hôm nay tôi xin kể sơ sơ mấy điều mà tôi biết – qua các thông tin của đạo diễn Tự Huy, nhà văn Đoàn Lê, nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà văn Tô Hoàng, nhà biên kịch Đoàn Tuấn, nhà báo Xuân Đài…

Ông Huy Vân vốn là một ngòi bút đã có tiếng tăm trong cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp. Ông là dịch giả tiếng Việt sớm nhất và đầu tiên cuốn tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Xô Viết N. Ostrovsky. Rồi ông trở thành một cộng sự đắc lực cho R. Karmen, tác giả bộ phim tài liệu nổi tiếng “Việt Nam” trong suốt 7 tháng làm phim ở núi rừng Việt Bắc và trung du, Đồng bằng Bắc bộ với 40.000 mét phim đã được quay. R. Karmen rất thích nghe Huy Vân kể chuyện, bởi ông kể thực hay về đất nước mình, dân tộc mình với bao nhiêu truyền thuyết, phong tục, tập quán. Và ông còn biết nhiều câu tục ngữ Nga… Ông là một người mà R. Karmen liên tục nhắc đến trong hai cuốn hồi ký “Ánh sáng trong rừng thẳm” và “Việt Nam chiến đấu”, giữa họ có sự đồng cảm đến nỗi Karmen phải thốt lên: “Vắng anh ấy một ngày là tôi cảm thấy buồn”.

Cuộc hôn nhân đầu tiên của nữ nghệ sỹ Tuệ Minh là với đạo diễn điện ảnh Huy Vân. Sau 1954, khi nước ta chuẩn bị bắt tay làm phim truyện điện ảnh, bà Tuệ Minh theo học lớp diễn viên, còn ông Huy Vân theo học lớp đạo diễn do các giảng viên Liên Xô hướng dẫn. Tốt nghiệp khóa học, ông Huy Vân tự viết kịch bản, thực hiện một bộ phim truyện nhựa hơn 100 phút: “Một ngày đầu thu”, kể về lớp thanh niên Việt Nam theo cách mạng và bước vào kháng chiến. Diễn viên Tuệ Minh đóng vai chính trong phim này. Một số đạo diễn, như Nông Ích Đạt khen Huy Vân rất nhiều, khen nhất là Huy Vân rất chịu khó tìm tòi trong công tác đạo diễn và rất yêu nghề. Đạo diễn Huy Thành minh họa lòng yêu nghề đó: Huy Vân là đạo diễn, vợ đóng vai chính đến cận cảnh vợ với bạn diễn nam là người tình của nhau trong phim, ôm nhau thắm thiết, Huy Vân hét rất lớn: ôm chặt vào…

Nhưng “Một ngày đẩu thu” vừa được khen trên báo chí, bỗng có lệnh “cấm chiếu”,nghe đâu là “Ăn phải “bả” diễn biến hòa bình của bọn xét lại Liên Xô”! Cho tới hôm nay, không một văn bản, không một lời lẽ nào giải thích cụ thể. Có điều, kể từ ngày ấy bộ phim “ Một ngày đầu” chưa bao giờ được ra rạp chiếu lại để gỡ tiếng oan. Ngay bản gốc Négatif phim “Một ngày đầu thu” cũng đã bị hủy hoại bởi ẩm mốc trong kho tư liệu phim. Còn “vụ án” về  đạo diễn Huy Vân và cái chết đầy bi thảm của ông, cho đến tận hôm nay cũng không một cơ quan công quyền nào làm sáng tỏ đúng, sai.

Huy Vân đi tù không án gần sáu năm, có lẽ bởi ông đã đôi lần gặp gỡ trao đổi chính kiến với những người có tên trong “sổ đen có vấn đề” trước Nghị quyết 9 và hiện tình đất nước. Hồi học Nghị quyết, thấy cấp trên nói cho bảo lưu ý kiến, nên ông phát biểu thẳng thừng: Nghị quyết Trung ương Đại hội 3 đã ghi rõ: xây dựng miền Bắc vững mạnh, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước, Nghị quyết 3 chưa ráo mực thì Nghị quyết 9 đã chống lại! Ông ngây thơ không biết là những lần ông gặp gỡ các bạn cùng quan điểm như Hoàng Minh Chính, Lưu Động, Trần Đĩnh, v.v, ở công viên Thống Nhất đều bị công an theo dõi… Rồi ông bị tống vào Hỏa Lò, sau đó cũng như các bạn “xét lại”, ông bị đày đi các trại trên núi rừng Việt Bắc.

Huy Vân được ra tù, về Ninh Bình làm ở một hợp tác xã gì đó, ít lâu sau thì về Hà Nội với vợ con. Nhưng ông bị vợ đuổi ra khỏi nhà, đêm đêm ra ngủ ở vườn hoa Hàng Đậu, nhớ con thì tìm đến nhà nhìn qua khe cửa, ngắm con ngủ một lúc thì bỏ đi... Đạo diễn Tự Huy có lần trong cuộc rượu kể tôi nghe chuyện Huy Vân ăn cắp xe đạp, cố tình cho người mất xe bắt tại trận để được đưa ra tòa, có dịp kêu oan cho bà con thiên hạ biết về việc mình bị đi tù không án là trái pháp luật, để được đưa công khai ra xử toàn thể anh em dính vào vụ án xét lại.

Huy Vân về Hà Nội không ở một chỗ nào nhất định, nay ngủ nhà này mai ngủ nhà khác, gần chục nhà của bạn bè ở suốt từ Bạch Mai cho đến Bưởi, còn tiện đâu ăn đấy, lúc nhà bạn lúc cơm đầu ghế, có khi ngủ ngoài ga Hàng Cỏ hoặc ghế đá vườn hoa… Khi cán bộ chấp pháp hỏi lệnh tha tù, ông nói như khóc: Bắt tôi không có lệnh, thả khỏi tù thì có lệnh tạm tha nhưng lệnh này khi nhập hộ khẩu ở Ninh Bình, công an giữ lại làm hồ sơ...

Rồi ông phiêu bạt vào Sài Gòn tìm việc làm. Có bạn thân gợi ý ông thử đến Xưởng phim TP. Hồ Chí Minh xin làm đạo diễn, hợp đồng từng phim một, hoặc viết kịch bản phim truyện, phim tài liệu, nơi nhà văn nhà biên kịch Vũ Thư Hiên cũng rời biên chế Hãng phim truyện VN vào viết kịch bản cho họ. Sau đó ít lâu có tin Huy Vân đã cùng một người con gái lên Sơn La, định vượt biên sang Trung Quốc và bị bắn chết... Mới đây, theo nhà văn Thái Kế Toại, ông Huy Vân dịch "Thép đã tôi thế đấy" một mình chứ không dịch cùng ai như một số người đã kể; ông từng làm phiên dịch cho Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Liên Xô vào năm 1955, 56 gì đó. Rồi ông bị bắt ở Quảng Ninh. Lần sau bị bắt ở HN giam ở Sơn La, chết trong tù vì bị lao năm 1982. Nhà văn Thái Kế Toại đã làm thủ tục giúp gia đình bốc mộ ôngnăm 1989...

 



III. CÁI CHẾT ĐAU ĐỚN CỦA ĐẠO DIỄN NGUYỄN ĐỖ NGỌC

đạo diễn Nguyễn Đỗ Ngọc
Chân dung đạo diễn Nguyễn Đỗ Ngọc năm 1988



Cái chết đau đớn giữa thời bình của người đạo diễn điện ảnh này đã được nhà biên kịch Đoàn Tuấn bạn tôi miêu tả là: “mang tinh thần võ sĩ đạo”(có lẽ phải thế mới được duyệt in), trong một bài viết chí tình chí nghĩa của anh, và cũng là duy nhất của giới báo chí chính thống lẫn ngoài luồng viết về ông: “Nguyễn Đỗ Ngọc: Người nghệ sĩ mang tinh thần võ sĩ đạo” (CAND oline).

Khi tôi mới về Hãng phim nhận việc, dáng vẻ phong thái của ông đã chinh phục tôi: vóc người tầm thước, đôi mắt mơ màng có chút riễu cợt sau cặp kính trắng, mái tóc bồng bềnh đầy chất lãng tử cùng chòm râu như nhân vật hoàng thân Mưskin trong tiểu thuyết “Thằng ngốc” của ông già Đốt người Nga (Dostoievsky)…

Chàng trai Hà Nội Nguyễn Đỗ Ngọc, anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp sau khi tốt nghiệp khoa Văn Đại học Tổng hợp HN đã tìm đến nghệ thuật thứ bảy, rồi chàng cựu chiến binh ấy được gửi sang Bungari học nghề đạo diễn điện ảnh. Khi tôi bắt đầu hành nghề trên cương vị phó đạo diễn vào cuối những năm 80, ông đã nổi danh là đạo diễn sung sức với các bộ phim do ông đạo diễn và viết kịch bản: Một chiến công (1968); Dòng sông âm vang (1974); Cách sống của tôi (1978); Đường suối cạn (1984); Vụ án viên đạn lạc (1987)… Ông còn là tác giả một số tác phẩm văn xuôi gây tiếng vang, đặc biệt truyện ngắn “Tứ tử trình làng”, là dịch giả cuốn tiểu thuyết trinh thám Bungari: “Chỉ chết khi không còn sống”.

Viết và làm phim đối với Nguyễn Đỗ Ngọc đã là cách duy nhất, tốt nhất để ông và gia đình nhỏ của ông vượt qua những đoạn trường khổ ải của cả đất nước một thời ngăn sông cấm chợ, Giá -Lương -Tiền chao đảo, khi mà dường như có rất ít cách để mưu sinh... Nhưng với người nghệ sỹ nhiều trăn trở như Nguyễn Đỗ Ngọc, lý tưởng và khát vọng tinh thần bị sứt mẻ, đổ vỡ trước hiện thực đã khiến ông nhiều khi phải cảm thấy bất lực, tuyệt vọng đến ê chề...

Ông tỏ ra đặc biệt quý tôi - thằng em “lính mới tò te” vào nghề đạo diễn còn nặng đuôi văn chương, ham tìm học hỏi các đàn anh trong nghề… Ông đã mời tôi về nhà ông, căn nhà đối diện vườn hoa Hàng Đậu, được trò chuyện với người vợ tần tảo của ông - một nghệ sĩ chơi Flut, và cô con gái nhỏ yêu văn của ông. Có thể thấy rõ, ông là một người sống chết vì nghệ thuật điện ảnh, lúc nào cũng bứt rứt, khát vọng làm được những bộ phim đúng theo ý mình; đi đâu, gặp ai, ông cũng đều say sưa kể về những ý tưởng các bộ phim mình sẽ làm… Có lần, tôi đã “chịu trận” ngồi nghe ông xi-nê mồm phim về Thánh Thơ Cao Bá Quát từ chập tối tới khuya, để cùng ông thấm thía cay đắng rằng: ý tưởng này cùng nhiều ý tưởng nào khác có liên quan tới sự “thao thức”, “quẫy đạp”, “phá vỡ”, “tìm tòi” đều là sự “cấm kỵ” tuyệt đối trong lòng nền nghệ thuật hiện thực XHCN! Không ngờ, đó là lần cuối cùng tôi được gặp ông…

Sống trong Xưởng phim như một kẻ cô đơn, vàhình như cũng có tên trong sổ đen nhóm “xét lại chống Đảng” từ nhiều năm trước, nên khi lãnh đạo Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội gợi ý ông sang trường thì ông rất phấn khởi, vì ông sẽ thực hiện được ý định mang những kiến thức và kinh nghiệm làm phim truyền lại cho các thế hệ sinh viên… Nhưng ông đã mang cái án “nguy hiểm với chế độ” chuyển từXưởng phim sang Trường; lại vốn là con người khí khái, trung thực, yêu lẽ phải, dị ứng với tất cả những gì khuất tất không lương thiện, nên đã vô tình bị rơi vào một “cái bẫy” đối với một tâm hồn chính trực như ông! Kết cục, giữa thời cả nước đói, túiông thì rỗng, ông đã bị trường cắt lương, chỉ được hưởng “trợ cấp xã hội” như một kẻ ăn mày mà với một người có lòng tự trọng cao mang bao khát vọng sáng tạo sôi sục như ông, khác gì một đòn giáng chí tử! Mấy năm sau gặp lại chị Thắng vợ ông ở Sài Gòn, chị kể trong nước mắt: “Anh ấy tập tễnh (sau lần bị tai nạn ô tô gẫy chân) bước về nhà, ôm mặt khóc nức và kêu lên với con gái: “Chúng nó cắt nốt cái dạ dày của bố rồi!”…

“Một đêm mùa hè năm 1989, ông đã quyết định từ giã cuộc đời theo đúng phong cách của những võ sỹ đạo”. Bạn tôi đã thận trọng và kìm nén đau xót viết như thế; và tôi có lẽ cũng sẽ viết như vậy, trong những ngày ấy, và cho báo chí, để đỡ “chướng tai gai mắt” đối với lãnh đạo văn nghệ, và cũng để làm giảm bớt nỗi bi thương trong cái chết của ông, giảm đi nỗi đau lòng của người thân ông trước một sự kiện khủng khiếp:

Trong gian bếp lạnh ngắt, ông đã dùng con dao trầu cau rạch bụng, tự kéo ruột mình ra và cắt chúng thành mấy đoạn để khỏi bị cứu sống… Cái chết tiêu cực này, để lại sự bàng hoàng xót thương nhiều năm trong lòng đồng nghiệp, dù sao cũng là một sự phản kháng có ý nghĩa đối với sự đểu cáng, sự “tử tế” giả vờ, thói đạo đức giả che đậy lòng tham lam ích kỷ giờ đây đã bắt đầu tràn ngập, thống trị xã hội…

 

Đạo diễn Mai An Nguyễn Anh Tuấn

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Ba 202411:17 SA(Xem: 1733)
The fact that Ho Chi Minh proclaimed Vietnamese independence and the formation of the Democratic Republic of Viet Nam [DRVN] on September 2, 1945 did not assure its international recognition. The French—reactionaries and progressive alike— adamantly insisted on the reintegration of Indochina into the French Empire, by force if necessary. Other great powers, for various reasons, independently supported the French reconquest.
07 Tháng Hai 20242:19 SA(Xem: 2784)
Bài này, “Cái Tôi kỳ việt và Âm bản Thành phố/Tình yêu trong thơ tự do Thanh Tâm Tuyền”, được phát triển, bổ sung và mở rộng từ bài viết gốc năm 1986, với tựa “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”, theo tinh thần tựa đề “L’Homme, cet Inconnu” (1935) (Con Người, kẻ Xa Lạ ấy) của Alexis Carrel (Nobel 1912). Một vài chủ đề đã được đưa vào, hay tô đậm, qua một cái nhìn hồi cố và tái thẩm, để làm đầy đặn và làm rõ hơn các đường nét về thơ Thanh Tâm Tuyền, vốn, trong bản gốc nguyên thuỷ, đã được vạch ra nhưng chưa được khai thác kỹ.
07 Tháng Hai 20241:35 SA(Xem: 2706)
Người ta thường chỉ nói về thơ Thanh Tâm Tuyền ở cái thời tuổi trẻ của ông, và gần như không có ai nói kỹ (hoặc tương đối kỹ) về tập “Thơ Ở Đâu Xa”, kết tinh bởi những bài thơ thời sau này của Thanh Tâm Tuyền, đặc biệt là thời ông đã đi qua những hào quang của tuổi trẻ mình, và cũng là thời mà ông đang đi vào, đang đi qua những hiện thực sống động nhất, theo một nghĩa nào đó, của thân phận con người, nói chung, và thân phận thi sĩ, nói riêng, của chính ông. Cũng có ý kiến cho rằng thơ Thanh Tâm Tuyền, trong giai đoạn này, chỉ là thơ thời khổ nạn, tù đầy, không có mấy điều đáng bàn. Ý kiến đó có lẽ nên được xét lại. Con người thi sĩ, đặc biệt những con người thi sĩ với chiều sâu và kích thước như của Thanh Tâm Tuyền, có thể tự thể hiện phong cách độc đáo của mình, tự khám phá hoặc đổi mới mình, trong tứ, trong từ, trong hình ảnh, suy tư mình, trên các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, tiết nhịp, điệu thức, thể loại… trong bất kỳ hoàn cảnh hiện sinh nào của họ.
23 Tháng Mười 20237:38 CH(Xem: 5140)
Even prior to the termination of the war in Europe in the summer of 1945, the United States and the Soviet Union stood out as the leading Great Powers. The United States emerged as the most powerful and richest nation, envied by the rest of the world due to its economic strength, technological and military power. Meanwhile, the Soviet Union surprised all world strategists with its military might. Despite its heavy losses incurred during the German invasion—1,700 towns and 70,000 villages reportedly destroyed, twenty million lives lost, including 600,000 who starved to death in Leningrad alone, and twenty-five million homeless families—after 1942 the Red Army convincingly destroyed German forces and steadily moved toward Berlin.
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 5954)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
05 Tháng Ba 20248:43 CH(Xem: 1618)
Em là sen Hồng thắm / Ngát hồn anh chiêm bao / Đêm dịu dàng xanh thẫm / Sen cười rất ngọt ngào
24 Tháng Hai 20242:39 CH(Xem: 2918)
Mà thơ. chấm. tới phẩy, nào / Dụi mắt. cắm một ngọn sào du dương / Không dưng / nghe một nạm buồn / Hai tay bụm lại / đầu nguồn thiết tha / Suối rất mệt giữa khe già / Tinh anh của đá / ném / xa / đường gần
14 Tháng Hai 20241:28 SA(Xem: 2237)
Tôi đưa tay gõ vào hư ảo / Chân lý mày đang trốn chỗ nào / Hóa ra đen đỏ hai màu áo / Chỉ để làm trò chơi khó nhau
14 Tháng Hai 20241:15 SA(Xem: 1725)
Này anh bạn – anh thấy không / Sự lộng lẫy không nhường chỗ cho điều gì hài hước / Chỉ tiếng nấc thanh xuân mềm yếu / Trên quảng trường nơi vũ hội đàn ông / Vỡ thành cơn địa chấn.
13 Tháng Hai 202411:57 CH(Xem: 2040)
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. Một trùng hợp thật ngẫu nhiên khi tạp chí văn học nghệ thuật Ngôn Ngữ phát hành vào tháng 2-2024 cũng vào dịp Tết Giáp Thìn 2024 ra số đặc biệt giới thiệu Bác sĩ / Nhà văn / Nhà hoạt động môi sinh Ngô Thế Vinh. Năm Rồng, giới thiệu người kết nghĩa với Cửu Long, tưởng không còn gì thích hợp hơn.