- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

VỀ HAI NGƯỜI PHỤ NỮ

26 Tháng Mười 202011:50 CH(Xem: 13031)


hai nguoi dan ba-NQ

Ta là gì ? Ta cần thiết cho ai? (Nguyễn Duy)

Phiên toà xử người dân Đồng Tâm cùng cái án tử hình, chung thân dành cho con cháu cụ Kình đã phủ xuống tâm trạng u ám cho tất cả chúng ta. Nhưng sự việc không dừng ở đó, công an đã bắt giam nhà báo Phạm Đoan Trang, đồng tác giả của ấn bản “Báo Cáo Đồng Tâm”. Đây là một ấn phẩm song ngữ Anh-Việt nhằm công bố với dư luận quốc tế về tội ác của lãnh đạo CS trong vụ án tranh chấp đất đai với người dân tại Đồng Tâm.

Vụ án đã làm chấn động tâm tư người VN đến cùng cực. Nhìn những người được toà án tha về khóc ai oán trước mộ cụ Kình hỏi ai không rơi lệ, hỏi tim ai không quặn thắt, hỏi ai không muốn ôm những con người vô tội ấy thật chặt vào lòng. Sự cô thế đến tội nghiệp của họ trước cái man rợ của bọn cường quyền làm lòng người ta tan nát. Nhiều người chỉ thốt lên được: “đau, đau, đau lắm…” đau đớn cho đất nước, đau cho người, đau cho chính mình, vừa đau vừa hổ thẹn trước sự lạc hậu, càn rỡ của luật pháp.

Nhưng lẽ ra chúng ta không nên đau nhiều như thế !? Để chấm dứt cái ác thì chỉ có hành động. Nhà báo Đoan Trang đã chọn thái độ ấy. Không phải tự nhiên mà các nhà nghiên cứu, các triết gia, các nhà sử học trên thế giới, những người chuyên nghiên cứu sâu về các chế độ độc tài như Phát-xít và Cộng Sản đều gọi hai chế độ này là “quỷ dữ”. Nhà sử học người Anh, Richard Overy thì gọi họ bằng cụm từ “nhà nước của sự khiếp hãi, nhà nước của khủng bố”.

***

Thật vậy, ngay chính cụ Kình, ông Bùi Viết Hiếu, bà Bùi Thị Nối, những người bị lực lượng chức năng bắn thẳng vào ngực, cũng không thể nào hiểu được tại sao họ lại bị bắn? Cả cuộc đời 29 người nông dân ấy cũng không thể nào hiểu được điều gì đã xảy ra cho mình? tại sao họ lại trở thành những tội phạm giết người?

Công lý ở các phiên toà nước ta chỉ là trò hề không hơn không kém. Và trò hề đó được diễn đi diễn lại như diễu cợt thân phận con người. Điều cay đắng, chúng ta lại là một phần trong cái bi hài kịch ấy!

Không đâu trên thế giới này lại có những điều thật ấn tượng như các phiên toà ở đây. Xin chia sẻ một trong những ấn tượng ấy là các phát biểu về những điều “không cần thiết” của các vị đại diện viện kiểm sát. Nhưng trước khi nói về những thứ “không cần thiết” đó, tôi muốn kể một chuyện hài. Bạn có thể cười vui, cười buồn, cười chua xót, hoặc cười ra nước mắt, … Dù sao, nó cũng minh hoạ khá chính xác về cái càn rỡ của nghành tư pháp nước ta.

 

Có hai vợ chồng nhà kia đi nghỉ mát bên cạnh một bờ hồ. Trong lúc người chồng say ngủ, người vợ lấy chiếc thuyền bơi ra giữa hồ ngồi đọc sách. Một cảnh sát bơi thuyền đến bên bà và nói:

-          Thưa bà, ở đây cấm câu cá, tôi phải bắt bà.

-          Nhưng tôi đâu có câu cá.

-          Tôi vẫn phải bắt bà, thưa bà, vì thuyền bà có chứa đầy đủ các dụng cụ để câu cá.

-          Khoan đã, nếu thế tôi sẽ thưa với quan toà là ông cưỡng hiếp tôi.

-          Tôi đâu có, tôi chưa hề đụng vào người bà.

-          Nhưng thưa ông, ông có đầy đủ các dụng cụ để thực hiện hành vi đó.

 

Những phiên toà loại “đầy đủ dụng cụ” này đã gán ghép bao nhiêu công dân lương thiện vào những tội họ không có hành động cũng như hoàn toàn không có khả năng vi phạm. Thế nhưng họ vẫn bị ghép vào những tội danh kinh khủng như “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, “tàng trữ tài liệu, tuyên truyền chống phá nhà nước”, ... Khi ra trước toà, họ cũng như 29 nông dân kia, những điều luật để bảo vệ họ đều bị vị thẩm phán chủ toạ khẳng định: “không cần thiết”.

Xin đơn cử những điều “không cần thiết” trong phiên toà được cho là với tội danh nghiêm trọng “giết người” của 29 nông dân xã Đồng Tâm:

-          Hồ sơ vụ án có quá nhiều điểm mâu thuẫn, nhưng đề nghị trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung của các luật sư là “hoàn toàn không cần thiết”.

-          Việc các Luật sư yêu cầu được gặp các bị cáo tại phiên toà là “không cần thiết”.

-          Việc Luật sư yêu cầu sự có mặt của các nhân chứng quan trọng (cụ bà Dư thị Thành, viên công an bắn chết cụ Kình) là “ không cần thiết”.

-          Việc các Luật sư yêu cầu thực nghiệm hiện trường để làm rõ cái chết của 3 công an là “không cần thiết”.

-          Việc Luật sư yêu cầu khởi tố vụ án giết người liên quan đến cái chết công dân Lê Đình Kình là “không cần thiết”.

-          …

Ngoài những điều bạch văn trên, còn có biết bao những điều không cần thiết khác mà người dân Đồng Tâm phải đối mặt: sự có mặt của thân nhân các bị cáo tại phiên toà là không cần thiết; phiên toà dự định diễn ra 10 ngày là không cần thiết, chỉ bốn ngày là nghị án được rồi; phần bào chữa của các luật sư bị tước bỏ vì không cần thiết; …

Tòa án là nơi diễn giải luật pháp và phán xét dựa trên luật pháp, thế nhưng ở phiên toà Đồng Tâm, một vị thẩm phán đã liên tục ngắt lời các luật sư và nói thẳng với Ls Luân Lê rằng: “Ở đây không nói luật nữa, không giải thích luật”?!

Suy cho cùng, tôi cho rằng vị thẩm phán đó rất thật lòng và ông có cái lý của ông. Giải thích luật ở các phiên toà này là vô ích, ngay đến bản thân ông hay thân phận vị chánh án cũng vậy, cũng không cần thiết. Án bỏ túi, chỉ cần người vào vai chánh án, lôi ra đọc và gõ búa là xong; chỉ tội cho những người chết oan trong cuộc và gia đình họ. Tôi chắc rằng đối với thân nhân của 3 sĩ quan, những huân chương chiến công hạng nhất đó, mới thực sự là không cần thiết!

Khi con người bất lực trước dối trá, khi sự dối trá đã lên đến đỉnh điểm người ta mới khao khát một lời nói thật, người ta mới thấy rằng sự thật là một báu vật. Sự Thật giúp người ta được sống với nhân phẩm, nó giữ người ta thoát khỏi sự hèn mọn. Nhìn thái độ của nông dân Bùi thị Nối trước toà, người ta nhớ đến hình ảnh khóc lóc, cầu xin của các tướng lĩnh, các quan chức CS mà thấy tiếc cho họ. Dù ít học, người phụ nữ này đã làm sống lại giá trị của một con người. Có lẽ điều này mới chính là điều cần thiết nhất cho chúng ta trong lúc này, ở ngay tại phiên toà này.

Trong khi hầu hết 28 người khác đã nhận tội, đã từ chối luật sư, bà Bùi thị Nối đã chọn nói thật. Bà bước lên mọi dối trá, mọi thứ đồ giả chung quanh bằng nỗi khát khao từ đáy tim bà. Bà cầu xin mọi người VN, thế giới, các luật sư, các trí thức hãy tìm ra con đường sáng sủa nhất cho những con người cùng khổ trên đất nước này:

“Tôi có một vấn đề: Tôi là người dân Đồng Tâm, vì bát cơm manh áo mà tại thời đại hoà bình, bố tôi, ông Kình 58 tuổi Đảng, là người nông dân mẫu mực; thời đại hoà bình mà để mất các chiến sĩ hy sinh; chỉ vì một đêm thôi, tôi đã bị một viên đạn xuyên vào ngực. Những người nông dân không có đất, để kiếm bát cơm manh áo; yêu cầu Đảng, Chính phủ, Thế giới này, giúp người dân lao động. Những Luật sư, nhà trí thức, cố gắng tìm ra con đường sáng sủa nhất cho người dân lao động, cho thế giới loài người, để sống cuộc sống thanh bình nhất, đẹp đẽ nhất”

***

Nghe câu nói đứt quãng của bà Bùi thị Nối người ta hiểu vì sao Đoan Trang kiên trì đấu tranh, và vì sao chị viết “Báo Cáo Đồng Tâm”. Cả hai người phụ nữ cùng bị bắt giam, cùng đối mặt với tù đầy, nhưng cả hai cùng đánh cược những rủi ro của mình vì người khác. Tôi nghĩ đến 90 triệu con người đang lầm lũi sống giữa thiên tai và nhân tai. Gần 200 ngàn căn hộ đã chìm sâu trong nước, hơn 100 sinh mạng con người dập vùi trong lũ hết năm này sang năm khác mà vẫn không ai hỏi tại sao?!

   

Trong những ngày mưa bão trắng miền Trung, tôi nghĩ về hai người phụ nữ ấy. Cả hai cùng bé nhỏ, cô thế, yếu đuối, nhưng họ thật lớn lao và cần thiết. Đọc tâm thư “nếu tôi có đi tù” của Đoan Trang tôi nghĩ đến người phụ nữ thương tật ấy và những hy sinh âm thầm của chị mà xúc động. Tôi tự hỏi chính mình, và nghe trong mưa gió, trên những mái nhà ngập nước, câu hỏi như đang truyền đi trong gió bão: “Chúng Ta là gì? Ta cần thiết cho ai?

 

Nguyệt Quỳnh

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 89915)
...Chết tuy biết vì sao mình chết, do đâu mình chết mà không làm gì được. Chết một lần dưới làn đạn Tây dương. Chết thêm một lần về tinh thần bởi lòng trung bị khủng hoảng, bị phản bội, ấy là thời đại của những con người như Hoàng Diệu, ấy là những anh hùng cứu nước như Hoàng Diệu...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75735)
Hợp Lưu 112 Xuân Tân Mão 2011 , đến với bạn đọc và văn hữu khắp nơi trong tiết trời lạnh hơn mọi năm. Một năm đã trôi qua với bao biến động trên thế giới ngày nay, và cũng là một năm có nhiều đổi thay nơi quê nhà. Dù đang ở nơi nào, tâm hồn người Việt vẫn luôn hướng về; mong mỏi đổi mới, cải thiện cho một xã hội tốt đẹp hơn. Mùa Xuân là biểu hiệu của khởi đầu và hy vọng, cũng là dịp cho chúng ta suy gẫm và nhìn lại một năm đã qua.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 103814)
...Tôi đến Trường Chu Văn An trên đường Thụy Khuê, vào phía sau sân trường tìm bãi cỏ nhìn qua Hồ Tây để nhớ đến nụ hôn đầu tiên Kiên bỡ ngỡ đặt lên môi Phương trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Bãi cỏ xanh mướt ngập đầu lưu giữ tình yêu đầu tiên của Kiên không còn nữa. Nếu giờ đây, Phương cũng đã đi nước ngoài và lấy chồng ngoại quốc, nụ hôn của Kiên trao cho Phương, chính tôi nhận và giữ hộ...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 87234)
Larsson lìa đời trước khi đứa con tinh thần, bộ tiểu thuyết thuộc loại trinh thám, Millennium Trilogy, gồm ba cuốn, mà ông đã viết vào mỗi tối như một trò giải trí cho thần kinh bớt căng thẳng, ra đời sáu tháng sau khi ông ký giao kèo với một nhà xuất bản Thụy Điển, Norstedts Förlag, nhà xuất bản thứ hai Larsson liên lạc và ký giao kèo, sau khi gửi cho một nhà xuất bản thứ nhất tới hai lần mà gói sách không hề được mở ra.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92704)
Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng Tư 1975, chúng tôi có cái hân hạnh được Công đoàn bảo hiểm Pháp ( Fédération Française des Sociétés d’Assurance ), qua thỏa ước với Bộ Tài chánh CHXHCNVN, gởi về nước cùng với một số nhà giáo Pháp giảng dạy bộ môn Bảo hiểm còn mới này trong trường Đại học Tài chính và Kế toán Hà nội - nay trường đã lột xác trở thành Học viện Tài chính.
14 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 109343)
Về đi thôi nhật ký ngày chân đất Gốc đa già bà kể lá bùa yêu Em ôm giấc thị thành nửa mùa cổ tích Hỏi gió trời sao giấu lá bùa yêu 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 84417)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83459)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75779)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80561)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.