- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

ĐỌC LẠI ĐÔI BẠN CỦA NHẤT LINH

07 Tháng Mười Một 20198:36 CH(Xem: 20217)

 

 DOI BAN - nhatlinh- NgCongKhanh 

   

 

Trong thời niên thiếu, anh cũng như một số bạn đều mê đọc tiểu thuyết, đọc thơ của các văn thi sĩ tiền chiến. Trong các nhóm nhà văn đó thì nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã ảnh hưởng đến anh nhiều nhất. Văn của họ nhẹ nhàng, trong sáng, với những truyện tình lãng mạn lồng trong khung cảnh quê hương đơn sơ và lúc nào cũng man mác tình yêu.  Truyện của họ, không lúc nào thiếu trong tủ sách gia đình của anh. Trong nhóm đó, Nhất Linh được anh coi như một mẫu người lý tưởng, một nhà văn, một chiến sĩ cách mạng. Nhiều nhân vật trong truyện đã in sâu vào ký ức anh.  Họ không những đã trở thành một phần đời sống của anh mà đôi khi lại là những giấc mộng không thành. Trong những năm cuối cuộc đời, ông xa lánh cảnh trần tục, như một tiên ông quy ẩn bên dòng suối Đa Mê của rừng lan Đà Lạt.

 

Anh thích đọc truyện của Nhất Linh, vì theo nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh, trong cuốn “Chân Dung Nhất Linh”, ông thường nói tới "Những con người bị dìm sâu xuống, muốn vươn lên, và những khúc mắc của tâm hồn mỗi con người". Nhất là quyển "Đôi Bạn", anh đã đọc đi, đọc lại nhiều lần, có hình ảnh Dũng và Loan trong đó. Họ cùng hiểu nhau, cùng yêu nhau, tình yêu của họ lúc xa, lúc gần dù cho tới một buổi chiều cuối cùng chia tay trên đồi cỏ may, hai người vẫn thấy tình yêu của họ sao mà nghiêm trọng đến nổi không ai dám nói cho nhau biết. Dù Dũng biết rằng đây có thể là lần cuối, chàng có thể ngồi cạnh Loan bên bờ giếng khơi, có thể ngửi được mùi quê hương nồng ấm trong cơn gió đưa thoảng lên từ dưới cánh đồng lúa chín xa, có thể nhìn thấy những con châu chấu xanh, những con cào cào cánh xanh đỏ của thời thơ ấu bay qua trước mặt rồi lẫn vào đám cỏ xanh. Ngay cả đến Loan, nàng cũng biết rằng sắp phải xa Dũng, dù biết rằng Dũng ra đi chắc gì đã thoát được như một số bạn của chàng. Dù biết rằng, chắc gì đã có ngày gặp nhau, và ngày mai thì Dũng đã ở một nơi nào đó mà nàng chỉ có thể tưởng tượng nghe tiếng vó ngựa mơ hồ và hình ảnh Dũng bạt vào cảnh núi rừng biên giới mịt mù xa xăm...

 

Anh nhớ lại một buổi sáng, tuần trước. Anh lái xe thẳng đến một quán cà phê ở phố chợ, tìm một chổ sát khung cửa, ngồi nhìn xuống cả một vũng biển bao la. Sáng sớm quán còn vắng người. Trong cái yên lặng của mặt biển mùa thu, anh nhấm một chút cà phê và giở đoạn cuối cuốn truyện ra đọc. Anh có thói quen khi đọc những cuốn mà anh thích, anh thường đọc từng chữ và từ từ để từng ý thấm vào hồn. Trong tất cả những truyện thời đó, "Đôi Bạn" đã cho anh thấy một cái gì khác biệt hơn các tiểu thuyết thường tình. Có lẻ là một cái gì rất mơ hồ về sự áp bức và cách mạng, về sự ra đi và hành động.

Anh đọc hết trang cuối, từ từ gấp sách lại. Đầu óc anh vẫn còn theo dõi hình ảnh của Dũng và Trúc đang ngồi trong một bản thổ heo hút chờ người đến đón để hôm sau cùng vượt biên giới Hoa Việt trốn sang Tàu.

 

Anh nhìn ra ngoài trời, màn sương lạnh vẫn chưa tan trên vùng biển, rặng núi xám phía xa vẫn còn mờ ảo và chiếc phà đưa người sang đảo chỉ còn là một cái bóng nhỏ mờ lẫn trong sương . Anh nhớ đến nổi vui vô vọng của Dũng trước giờ lao vào cuộc đời gió bụi. "Có lẻ Dũng nghỉ đến cái vui sướng một ngày kia, một ngày xa xôi lắm và không chắc có còn không, lại gặp được Loan, người của quê hương cũ, người của tuổi thơ mà chàng biết không bao giờ có thể quên". Anh nghĩ đến những người thanh niên yêu nước như Dũng, như các bạn Dũng hồi đó đã phải ẩn nấp tìm đường ra hải ngoại hoạt động để mong có một ngày về lật đổ được ách gông cùm của thực dân Pháp và phong kiến. Đã bao nhiêu người đã bị bắt lại trên chặng đường biên giới đó và chắc gì Dũng đã dễ dàng thoát được...

 

Anh lại nhớ đến bộ truyện dài cuối cùng của ông "Dòng Sông Thanh Thủy", có "Ba Người Bộ Hành", có "Chi Bộ Hai Người" và có tấm lòng "Vọng Quốc" mà Nhất Linh đã viết 24 năm sau quyễn "Đôi Bạn". Ông viết về những cảnh tàn sát lẫn nhau giữa Việt Minh và Việt Quốc, họ cùng làm cách mạng lưu vong trên đất Tầu.  Có bao nhiêu chiến sỉ hải ngoại ao ước như lời Thanh nói với Ngọc: "Chúng mình về biên giới. Anh ạ, xa nước bao lâu tôi chỉ mơ ước về được tới biên giới. Nếu về nước nguy hiểm thì tôi chỉ cốt đưa bàn chân sang bên kia mốc, hoặc cúi xuống lấy tay sờ bãi cỏ của nước nhà. Chắc là bãi cỏ nước nhà sờ vào mát tay lắm và mát cả hồn nữa..."

 

Đã có bao nhiêu thanh niên đã trở về được qua cái lằn ranh đó, đến với quê hương yêu dấu mà họ đã vượt qua những năm xa trước. Hay trải qua bao nhiêu năm, nằm phục tại đất Tàu, những người thanh niên "Việt Quốc", "Việt Cách" đó trên đường về đã bị người anh em thù nghịch "Việt Minh" sát hại không nương tay. Cũng như Ngọc và Thanh đã bị họ bắn gục bên dòng sông Thanh Thủy, vùng Ma-li-pố bên Tàu, khi về tới sát quê hương. Cuộc tương tàn đó vẫn tiếp diễn không biết ngày nào mới chấm dứt.

Anh nhớ đến những người đã trở về được, trong đó có người cậu của anh, Ngô Kim Cương, một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Tưởng rằng ách thực dân sụp đổ, sẽ có ngày thênh thang ra sức tô điểm sơn hà. Nhưng họ đã bị gạt ra ngoài, bắt bớ, cô lập, thủ tiêu và sau bị dồn về cố thủ tại Yên Bái. Cuối cùng họ bị vây hãm, bị sát hại tan hoang, tại chính cái chiến khu mà mấy chục năm trước, những chiến sĩ đàn anh đã khởi nghĩa lần đầu chống Pháp. Cũng chính tại nơi đó, những đàn anh của họ đã hô lên một lần cuối "Việt Nam Vạn Tuế" trước khi hồn họ, thân thể họ, vĩnh viễn hòa lẫn vào khí thiêng của sông núi.

 

Thương nhất là những người mẹ già như bà ngoại của anh, bà mong nhớ người con trai duy nhất từng ngày , từ khi con lẩn lút ra đi, đến lúc vừa được tin con trở về, thì lại có tin con bị bắt trong ngày Tổng Khởi Nghĩa Tháng Tám của Việt Minh. Anh nhớ đến bà ngoại anh, sau ngày Yên Bái thất thủ lần cuối, vẫn hy vọng con mình còn sống. Suốt mấy chục năm sau, mỗi lần gặp được các người bạn của con, đều đưa ra tấm hình cậu Cương hồi còn đi học trường Bưởi chụp chung với cả lớp để họ nhận diện. Họ đều chỉ đúng, nhưng sống chết thì họ không thể biết. Nếu cậu không bị sát hại trong chiến khu, thì cũng khó thoát khỏi cái màn lưới bao la hiểm nghèo của rừng núi Bắc Việt, và nếu có thoát được cùng với một số anh em thì chắc chỉ còn cách trốn lại sang Tàu. Không hiểu sao, chính anh cũng tin tưởng cậu anh vẫn còn sống. Ngay cả đến khi đã trưởng thành, đôi lần có dịp đi công cán tại Đài Bắc, anh đều cố dò hỏi, tìm đến những người "Việt Quốc "cuối cùng . Họ cũng đều trả lời như trên.  Anh nhìn những người chiến sĩ già đó; họ lặng lẽ, âm thầm sống một cuộc đời lưu vong. Tự nhiên anh nhớ lại nỗi vui được trở về của họ ngày trước, chắc cũng chẳng khác gì nổi vui của Dũng trước giờ ra đi, lao vào cách mạng: "Một ngày kia, một ngày xa xôi lắm và không chắc có còn không, lại gặp được Loan, người của quê hương cũ, người của tuổi thơ mà chàng biết không bao giờ có thể quên", thì ngày đó chắc chẳng bao giờ còn nữa...

 

Cho dù cậu anh có còn sống, như một số người khác, trong cái tuổi già thấm mệt, chắc thế nào cũng có lúc nhìn lại quãng đời của mình, quãng đời của các đồng chí mình trong cuộc tương tàn Quốc Cộng. Họ chắc cũng chẳng khỏi ngậm ngùi vì những thất bại chua cay: 1945, mất dịp cầm quyền. 1954, mất nửa đất nước. 1975, lại thấy những người em của mình, những người con của mình đã làm mất nửa phần đất cuối cùng, lại bắt đầu một cuộc ra đi vượt biên khác, không biết đến ngày nào mới có dịp trở về...         

Anh có dịp đọc được nhiều bản phản tỉnh của người quốc gia phân tích những thất bại, không phải chỉ thất bại với những kẻ thù nghịch mà thất bại ngay chính cả với những người anh em cùng chiến tuyến.

 

Trong cuốn "Chân Dung Nhất Linh", Nhật Thịnh đã viết về con người lý tưởng của anh, viết về một lãnh tụ Việt Quốc nòng cốt và cái chết của ông: "Ông hoạt động chính trị nhưng lập trường vẫn không "rõ rệt". Hoàng Đạo chết, ông ngưng làm chính trị, đang chơi lan, viết sách ở Đà Lạt lại nhẩy về Saigon làm đảo chính, thất bại bị xử án, lại uống thuốc độc tự tử. Ông làm chính trị mà không xóa hẳn được cái bản chất lãng mạn của một nhà văn. Ông nhiều lúc đã để cho tình cảm chi phối lý trí. Bởi vậy, dù đứng ở địa vị lảnh tụ nhưng ông đã thiếu những đức tính của một nhà lảnh tụ và vai trò chính trị của ông đã làm rắc rối cuộc đời văn chương của ông . Sự thật, ông chọn sự siêu thoát là ông đã chọn cái thái độ của người quân tử: Làm điều phải, thủ tiết. Gặp lúc phải chết thì chết. Chết sao cho đúng lúc. Có thể nói, ông đã thành công trong cái chết. Nếu ông sống, ông không tiếp tục tranh đấu, chỉ giữ một thái độ tiêu cực, ông sẽ chết già, cái chết đó sẽ không ai nói tới. Đằng nầy ông chết lúc mọi người còn đặt vào ông ở nhiều tin tưởng, cái chết của ông đã không khác nào một giò lan rụng xuống mà hương thơm còn phảng phất, làm mọi người phải nuối tiếc."

 

Anh lại nhớ đến bộ truyện dài "Dòng Sông Thanh Thủy",  trong đó có Ngọc, người liên lạc viên Việt quốc, sau khi kể lại đời lưu lạc của mình cho Thanh, người mình yêu đã bị Thanh phê bình: "Anh thì làm cách mạng theo lối tài tử, như một nghệ sĩ...". Không hiểu lúc viết ra câu đó, ông có nghĩ đã dùng Thanh để nói ra câu đó cốt ám chỉ cho tất cả các đảng viên của ông hay cho cả chính ông, một nhà văn lãng mạn làm chính trị nữa hay không. Lúc Ngọc và Thanh đều bị thương, lần này, ông không nỡ để tình yêu của họ xa xa gần gần như những truyện ông viết ngày xưa nữa, trong giây phút đó ông đã để họ bộc lộ và nói những lời yêu thương thắm thiết.

 

Tự nhiên anh muốn ngừng suy nghĩ, muốn mình ngừng lại, không muốn bị quá khứ ám ảnh. Anh châm thuốc hút, nhìn những sợi khói dài dần dần tan loãng trong phòng. Tự nhiên anh thấy lại bao nhiêu cuộc đời đã hy sinh, bao nhiêu "nội lực", bao nhiêu "vũ khí" mình có trong đầu, mình có trong tay đã bị tiêu hao dần lúc nào không hay! Bao nhiêu thanh niên yêu nước bị sát hại vì cảnh tương tàn trong thời kỳ cách mạng còn trong bóng tối.  Bao nhiêu công lao trong mười năm dài kháng chiến chống Pháp đã chuyễn sang tay người Cộng sản. Một triệu tấm lòng của người dân Bắc Việt di cư khi đất  chia đôi, cộng với nhiệt tình yêu nước của dân miền Nam cũng đã không giúp nổi nền Đệ Nhất Cộng Hòa kéo dài được tới mười năm. Những lảnh tụ quốc gia vẫn bị giam hãm, tù đầy vì nạn độc quyền lãnh đạo và đã đưa đất nước vào cảnh rối bù cho đến khi sụp đổ.

 

Nhìn ra cả thế giới, sau thế chiến thứ hai một số quốc gia bị chia đôi cho Quốc và Cộng: Đức, Đại Hàn và cả Việt Nam, tất cả cả các phần đất phía Tự Do đều cường thịnh và phát triễn vượt hẳn các phần đất trong tay Cộng Sản, thì  Việt Nam lại mất vào tay Cộng Sản trước nhất. Bây giờ với triệu người rời nước ra đi ai cũng mang một mẫu số chung lớn trong lòng: mong một ngày có dịp trở về khi thấy đất nước được tự do, bình đẳng  và đồng thời làm rạng danh Việt Nam trên miền đất mới.

 

                                                                                   *

 

Riêng anh, sau này khi nghĩ đến Nhất Linh, đã  tiếc là  không có dịp đọc tiếp bộ trường thiên “Xóm Cầu Mới”. Bộ này, ông dự định viết hai ngàn trang, mà ông mới hoàn thành chưa được một nửa. Không hiểu các mối tình của Mùi và Siêu, của Bé  và Đỗi,  mà ông vẫn để tình yêu của họ xa xa gần gần như thuở nào, không hiểu sau này sẽ ra sao? Những nhân vật như ông Năm Bụng bán rượu, ông Giáo Đông bắt ruồi, Bác Hòa hàng cơm, cậu ấm Hải  đi bắn vịt trời,  nhà Mẹ Lê nghèo đói.... ở cái xóm đó có còn cái cảnh Bèo Giạt nữa hay không?

 

 

NGUYỄN CÔNG KHANH

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33962)
R ồi cũng đến lúc không còn để nói câu tiên tri nở trắng cánh phù dung rồi cũng đến lúc không còn để đợi khúc tình xa rớt lại giữa lưng chừng
22 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33664)
B ạn tôi dậy cho tôi viết ca khúc Sau 3 tuần bắt tôi viết 8 tiểu đoạn Tôi ghi note cho từng tiểu đoạn Tất cả đều không có gì sai Bạn dạo những note kia bằng dương cầm Tôi nghe những âm thanh là lạ Bạn nói với tôi  Cái này không phải nhạc Hiền ơi…
21 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 31831)
MKDSNM được phát hành vào một thời điểm rất ý nghĩa, ngay sau Hội nghị Thượng Đỉnh Mekong II / MRC Summit II vừa diễn ra tại Thành Phố Sài Gòn ngày 5 tháng 4, 2014. Hội nghị này đã được giới quan sát quốc tế và các nhà hoạt động môi sinh đánh giá như một thất bại về phía Việt Nam trong nỗ lực bảo vệ sự phát triển bền vững hệ sinh thái Sông Mekong, và ĐBSCL, cũng là mạch sống của ngót 70 triệu cư dân sống trong lưu vực.
21 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 36393)
K hi về đã lạnh vườn xưa Chỉ nghe giá rét sang mùa mà thôi Giờ em heo hút phương trời Biết chăng đây có một người nhớ thương
19 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34665)
Q ua một loạt truyện gởi đến độc giả Hợp Lưu gần như liêu trai và siêu thực, Uyên Lê tâm sự: “ Em chỉ thích viết về quê hương này, về Việt nam, có những điều đẹp như hoang đường ... Chỉ có yêu thật lòng người ta mới thấy cái đẹp của người mình yêu. Em viết về Phan Thiết và nước mắm rất nhiều, em cho đó là cái đẹp và tình! Em cũng viết nhiều về Huế… em không biết HL có thích chất tự tình quê hương đó của em không…” Chúng tôi xin gởi đến quí bạn đọc một bài viết về Phan Thiết của tác giả Uyên Lê.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37303)
C hỉ còn một góc phố Và một ngã tư chơ vơ không người chờ đợi Em đi qua hôm nào anh đâu biết Một nửa tình buồn lạc nhịp ngoài đêm
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 32223)
Đ ồng hồ cũng dừng lại đối với những người phải bỏ nước ra đi, sau khi ông Trần Mai Hạnh và bạn bè của ông vào Sài Gòn. Họ ra đi từng đợt: đợt di tản, đợt thuyền nhân, đợt đoàn tụ gia đình, đợt H.Ọ Mỗi đợt ra đi mang theo một loại quê hương, và trong hoài niệm, không ai muốn thay đổi hình ảnh thân yêu ấy. Bạn bè, nhà cửa, phố xá, tên đường tên đất, cả đến ngôn ngữ trao đổi thường ngày...giống như một cuốn phim đột ngột bị đứt, ngưng lại, thành tĩnh vật.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37742)
T hế kỷ chúng tôi trót buồn trong mắt Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư. {Bây giờ} Qua hai câu thơ đó Nguyên Sa đã diễn tả tâm trạng của thế hệ ông, thế hệ của những người trai trẻ ở miền Nam thời 1954-75, đã nuôi nhiều kỳ vọng cho tương lai đất nước, nhưng chẳng bao lâu đầy tuyệt vọng trong một quê hương khói lửa.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34675)
T ôi mãi bước trên con đường uốn cong chữ S móc nhau nối xích lại gần để biến dạng một hình lưỡi câu đu đưa trước cuống họng khát giữa tiếng rền than
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 35233)
LTS: Một năm rưỡi trước khi từ trần, tướng Trần Độ đã hoàn thành một tập nhật ký mà ông đặt tên là Nhật Ký Rồng Rắn: bắt đầu từ cuối năm 2000, viết xong tháng 5 năm 2001. Nhật ký Rồng Rắn là một bút ký chính trị trong đó, với tất cả tâm huyết, tác giả trình bày suy nghĩ của mình về các vấn đề chính trị của đất nước. Tháng 6.2001, Trần Độ vào Sàigòn thăm con và nhờ người đánh máy bản thảo. Ngày 10.6, ông đi lấy bản thảo, bản vi tính và sao chụp thành 15 bản. Trên đường về nhà, ông bị tịch thu toàn bộ các bản thảo và bản in chụp, xem là "tang chứng" của tội "viết và lưu hành tài liệu xấu". Cho đến ngày từ trần 9.8.2002, tướng Trần Độ không được trả lại nhật ký của mình. Trích đoạn dưới đây là một phần của nhật ký này. {theo tạp chí Diễn Đàn}.