- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Nhà Thơ Tô Thùy Yên Từ Trần

23 Tháng Năm 201912:27 SA(Xem: 17271)



to-thuy-yen-

Nhà thơ Tô Thùy Yên (ảnh: dutule.com)

 

HOUSTON (VB) – Nhà thơ Tô Thùy Yên đã từ trần vào lúc 9:15 giờ đêm giờ Houston (tức 7:15 giờ chiều giờ California) hôm Thứ Ba 21/5/2019.

Theo bản tiểu sử trên Wikipedia, nhà thơ Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, đã nổi tiếng từ thập niên 1950s tới nay. Ông là tác giả bài thơ Chiều trên phá Tam Giang mà một phần của nó đã được Trần Thiện Thanh phổ nhạc.

Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1938 tại Gò Vấp. Cha là chuyên viên phòng thí nghiệm Viện Pasteur, Sài Gòn, sau về công tác ở Bệnh viện Chợ Rẫy.

Thuở nhỏ học trung học Trường Petrus Trương Vĩnh Ký, có ghi danh theo học ở Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, ban văn chương Pháp, một thời gian rồi bỏ dở.
 

Ông bắt đầu có thơ đăng trên báo Đời Mới (thập niên 1950) trước khi xuất hiện và nổi tiếng trên tạp chí Sáng Tạo. Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp là những người nòng cốt của nhóm Sáng tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh "Thơ Tự Do" trên văn đàn Miền Nam vào thập niên 1960. Ông là người miền Nam duy nhất trong nhóm Sáng tạo.
 

Cuối năm 1963 ông nhập ngũ, phục vụ ngành chiến tranh chính trị. Chức vụ cuối cùng là thiếu tá, trưởng phòng Tâm lý chiến.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông bị nhà cầm quyền CSVN cầm tù ba lần, tổng cộng gần 13 năm. Cuối năm 1993 cùng gia đình sang Hoa Kỳ theo hồ sơ tù nhân chính trị, định cư ở Houston, tiểu bang Texas.
 

Tác phẩm đã ấn hành:

-- Thơ tuyển (xuất bản ở Đức năm 1994; Minnesota, Hoa Kỳ, 1995).

-- Thắp Tạ (An Tiêm, Houston, Hoa Kỳ, 2004).
 

Nhà phê bình văn học Thụy Khuê trong bài viết “Tô Thùy Yên, thời gian, tồn tại, cô đơn và đá” ghi nhận về nhà thơ Tô Thùy Yên:

"Đi từ những nghiệm sinh về sự tồn tại và thời gian, rất Heidegger ấy, thơ Tô Thùy Yên đớn đau và sâu sắc, ông tạo ra một mẫu cô đơn hành giả, có khả năng đi ngược thời gian, suốt đời tìm lại chính mình, đằng vân trong một vũ trụ đau thương, ô nhiễm những lừa lọc, tội tù và chết chóc...

 Ở Tô Thùy Yên, còn một con người nữa trong đó chất hành giả, ý niệm quân tử và hào hùng nhào nặn thành một tâm hồn "tráng sĩ" hiện đại. Hình ảnh này rất được quần chúng (di tản) ngưỡng mộ. Giọng thơ quan hoài, biên tái, mang hào khí của người (anh hùng) bại trận, bất khuất. Coi nhẹ tù đầy. Xem thường gian khổ. Kể chuyện mười năm lao cải nhẹ như lông.

     Bài Ta Về được phổ biến ngay khi Tô Thùy Yên còn ở trong nước như một bài ca ngất ngưởng của người tù cải tạo, cao ngạo trở về...”

 

Nhà thơ Du Tử Lê trong bài viết nhan đề “Tô Thùy Yên, một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam” nhận định:

Tô Thùy Yên, theo tôi, là một trong những nhà thơ của 20 năm văn học miền Nam, có ảnh hưởng rộng, lớn... Duyệt lại hành trình thi ca Tô Thùy Yên, 20 năm văn chương miền Nam, căn cứ trên mấy chục số tạp chí Sáng Tạo, từ bộ cũ đến bộ mới; bên cạnh những bài thơ tự do (rất ít), thì hầu hết những bài thơ ký tên Tô Thùy Yên là thơ có vần, điệu. Đôi khi vần, điệu của ông, nơi những bài thơ ấy, còn chặt chẽ hơn cả những thi sĩ thời tiền chiến nữa. Trong thể loại này, Tô Thùy Yên trội, bật nhất là thể thơ 7 chữ....

Một nét đặc thù khác trong thơ Tô Thùy Yên là chủ tâm sử dụng khá nhiều ngôn ngữ Nam…rặc. Chủ tâm này rất đáng kể; nếu người đọc nhớ lại rằng, đó là những câu thơ được viết trong khoảng thời gian 1956 tới 1975, trên một diễn đàn cổ súy văn chương… mới. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều ngôn ngữ đặc biệt kia, trong Tô Thùy Yên Thơ Tuyển (TTY/TT) in năm 1995, tại Hoa Kỳ.”
 

Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc trong bài viết “Tô Thùy Yên – thơ, như một vinh dự lầm than của kiếp người” ghi nhận về thơ Tô Thùy Yên:

“Tô Thùy Yên là kẻ được chọn. Cũng là kẻ được trao ban. Và như một con người Việt Nam, ông đã sống vượt lên và vượt qua, trong một nghĩa nào đó, những kinh nghiệm, những cảm xúc và những suy tư của con người thời đại nói chung. Những giọt nước của trí tuệ và cảm xúc, hắt lên phần đất Việt Nam, nơi những con sóng dâng lên từ Tây Phương và Âu Mỹ kia, ông có tiếp nhận. Ông trải nghiệm được cái sức sống và hơi mát trong sự tiếp nhận ấy. Nhưng cuộc đời của một con người Việt Nam, đặc biệt của một nhà thơ Việt Nam, như Tô Thùy Yên, đã đẩy ông chạm mặt với sự đau khổ và cô đơn ngay trong tình yêu, chạm mặt với chiến tranh, với cái chết, với cái bao la rờn rợn mang mang của vũ trụ đang đè lên kiếp sống mỏng manh, heo hắt, chỉ chợt loé tàn của kiếp người. Cái siêu hình ấy chụp bắt lấy nhà thơ và đẩy hắn trở về đối mặt với chính nó trong cõi con người. Ở đó, hắn lớn lên. Hắn trở thành lớn lao. Nhưng khốn khổ…

  

Nhà thơ Tô Thùy Yên trong bài trả lời phỏng vấn do Nguyễn Mạnh An Dân thực hiện trên mạng Dutule.com/Vanviet.info nói về cái nhìn của ông về văn chương:

“...Nói chung, trước kia cũng như sau này, đối với tôi, văn chương vẫn chỉ là một chứng từ sao lại về sự thất bại của con người trước cuộc sống. Mặt khác, đối với văn chương, có lẽ tôi là người mắc chứng cầu toàn dù tôi hiểu rõ rằng sự hoàn chỉnh, ở bất cứ lãnh vực nào, cũng chỉ là một khái niệm chớ không thể là một thực tế. Bài thơ nào của tôi dẫu có được sửa tới sửa lui bao nhiêu lần, khi đọc lại, tôi vẫn cảm thấy hình như chưa phải vậy. Tôi rất dễ bị ray rứt, dằn vặt chỉ vì một tứ chưa ổn, một chữ chưa đắc. Thậm chí nhiều khi tôi cảm thấy hối tiếc sao đã lỡ viết ra chi vậy...”

 

Đặc biệt là khi được hỏi về bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang do Trần Thiện Thanh phổ nhạc và khi nhìn lại về cuộc chiến Việt Nam, nhà thơ Tô Thùy Yên trả lời Nguyễn Mạnh An Dân:

“...Một tác giả tự trọng không bao giờ nên giải thích thêm nữa về tác phẩm của mình. Yếu tính của nghệ thuật là tự nó nói lên, đúng hơn là gợi lên, bằng những phương tiện đặc thù của mỗi tác phẩm những gì mà người nghệ sĩ muốn truyền đạt. Chung cho tất cả những bài thơ khác của tôi, chớ chẳng riêng gì với bài Chiều Trên Phá Tam Giang, tôi xin phép không phải làm một việc vô ích nữa là phụ chú. Còn giả dụ bây giờ nếu phải viết lại bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang, tôi có giữ nguyên cái nhìn như cũ không? Tôi sẽ trả lời là có mà chẳng phải ngần ngừ gì. Chiến tranh, nhất là chiến tranh ủy nhiệm huynh đệ tương tàn, bao giờ lại chẳng gây thương tổn nặng nề cho nhân phẩm?”
 

Một trong các bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Tô Thùy Yên là bài Ta Về, sáng tác năm 1985 khi còn trong Việt Nam, về sau in trong tập “Thơ tuyển” ấn hành năm 1995 ở hải ngoại. Bài thơ Ta Về làm theo thể thơ 7 chữ, dài tổng cộng 126 câu thơ, như sau:

 Ta về 


Tiếng biển lời rừng nao nức giục 
Ta về cho kịp độ xuân sang. 

 
Ta về – một bóng trên đường lớn. 
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai… 
Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ? 
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay. 
 
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp 
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu. 
Mười năm, mặt xạm soi khe nước, 
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ. 

Ta về qua những truông cùng phá, 
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may. 
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ, 
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay. 

Chỉ có thế. Trời câm đất nín. 
Đời im lìm đóng váng xanh xao. 
Mười năm, thế giới già trông thấy. 
Đất bạc màu đi, đất bạc màu… 

Ta về như bóng chim qua trễ 
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa. 
Ai đứng trông vời mây nước đó, 
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ. 

Một đời được mấy điều mong ước? 
Núi lở sông bồi đã lắm khi… 
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động, 
Mười năm, cổ lục đã ai ghi? 

Ta về cúi mái đầu sương điểm, 
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời. 
Cám ơn hoa đã vì ta nở. 
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi. 

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa, 
Làng ta, ngựa đá đã qua sông, 
Người đi như cá theo con nước, 
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng. 

Ta về như lá rơi về cội. 
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay. 
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống, 
Giải oan cho cuộc biển dâu này. 

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy 
Ruột mềm như đá dưới chân ta. 
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó, 
Người thức nghe buồn tận cõi xa. 

Ta về như hạt sương trên cỏ 
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời. 
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt. 
Tội tình chi lắm nữa, người ơi! 

Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ. 
Mười năm, người tỏ mặt nhau đây. 
Nước non ngàn dặm, bèo mây hỡi, 
Đành uống lưng thôi bát nước mời. 

Ta về như sợi tơ trời trắng 
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh. 
Ai gọi ai đi ngoài quãng vắng? 
Phải, ôi vàng đá nhắn quan san? 

Lời thề truyền kiếp còn mang nặng 
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra. 
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ. 
Mười năm, ta vẫn cứ là ta. 

Ta về như tứ thơ xiêu tán 
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên. 
Nhà cũ, mừng còn nguyên mái, vách. 
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền. 

Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ. 
Nhà thương khó quá, sống thờ ơ. 
Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ. 
Khách cũ không còn, khách mới thưa… 

Ta về khai giải bùa thiêng yểm. 
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi! 
Hãy kể lại mười năm mộng dữ. 
Một lần kể lại để rồi thôi. 

Chiều nay, ta sẽ đi thơ thẩn, 
Thăm hỏi từng cây những nỗi nhà. 
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở? 
Mười năm, cây có nhớ người xa? 

Ta về như đứa con phung phá 
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu. 
Mười năm, con đã già như vậy. 
Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu… 

Con gẫm lại đời con thất bát, 
Hứa trăm điều, một chẳng làm nên. 
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn. 
Hạt lệ sương thầm khóc biến thiên. 

Ta về như tiếng kêu đồng vọng. 
Rau mác lên bờ đã trổ bông. 
Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng 
Chờ anh như biển vẫn chờ sông. 

Ta gọi thời gian sau cánh cửa. 
Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu. 
Ta nghe như máu ân tình chảy 
Từ kiếp xưa nào tưởng lạc nhau. 

Ta về dẫu phải đi chân đất 
Khắp thế gian này để gặp em. 
Đau khổ riêng gì nơi gió cát… 
Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm. 

Cây bưởi xưa còn nhớ trăng hoa. 
Đêm chưa khuya lắm, hỡi trăng tà! 
Tình xưa như tuổi già không ngủ, 
Bước chạm khua từng nỗi xót xa. 

Ta về như giấc mơ thần bí 
Tuổi nhỏ đi tìm những tối vui. 
Trăng sáng lưu hồn ta vết phỏng. 
Trọn đời, nỗi nhớ sáng không nguôi. 

Bé ơn, này những vui buồn cũ, 
Hãy sống, đương đầu với lãng quên. 
Con dế vẫn là con dế ấy, 
Hát rong bờ cỏ, giọng thân quen. 

Ta về như nước tào khê chảy. 
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ. 
Thân thích những ai giờ đã khuất? 
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa. 

Người chết đưa ta cùng xuống mộ. 
Đêm buồn, ai nữa đứng bờ ao? 
Khóc người, ta khóc ta rơi rụng. 
Tuổi hạc, ôi ngày một một hao. 

Ta về như bóng ma hờn tủi 
Lục lại thời gian, kiếm chính mình. 
Ta nhặt mà thương từng phế liệu 
Như từng hài cốt sắp vô danh. 

Ngồi đây, nền cũ nhà hương hỏa, 
Đọc lại bài thơ buổi thiếu thời. 
Ai đó trong hồn ta thổn thức? 
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi. 

Ta về như hạc vàng thương nhớ 
Một thuở trần gian bay lướt qua. 
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn, 
Đành không trải hết được lòng ta. 
7-1985 

  

Nhà thơ Tô Thùy Yên từ trần là một mất mát lớn cho văn học Việt Nam.

Nguồn: VIỆT BÁO ONLINE

https://vietbao.com/a294406/nha-tho-to-thuy-yen-tu-tran  

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 30885)
T hấp thoáng tháng tư rưng rưng mùa hạ cũ Mùa xưa qua đây Tuổi trẻ hồng như màu mực đỏ Đêm đốt rừng gió xiết cổ tình ca
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 31331)
« C hiến tranh là sự tiếp nối chính trị bằng những phương tiện khác» . Câu văn trứ danh này của Clausewitz, có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe qua. Nó xác lập sự phụ thuộc của quân sự vào chính trị. Từ khi có những tập hợp người gọi là thành quốc hay quốc gia, người ta không làm chiến tranh đơn thuần nhằm chém giết lẫn nhau, mà để giành lấy quyền định đoạt số phận của một cộng đồng. Và kẻ tham chiến có thể thua hàng trăm trận đánh, miễn là thắng trận cuối cùng, nếu sau đó nó mang lại quyền quyết định về việc tổ chức chính quyền trên một lãnh thổ.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 31994)
T ình trạng dịch thuật hiện nay ở Việt Nam đang ở mức cần phải báo động. Radio RFI đã dành nhiều chương trình cho những buổi nói chuyện với nhiều dịch giả trong và ngoài nước về vấn đề này. Sau Hoàng Hưng, Phạm Xuân Nguyên là những nhận định có phần nghiêm khắc của dịch giả Trần Thiện-Đạo đã sống ở Paris trên nửa thế kỷ. Trước 30-04-1975, Trần Thiện-Đạo cộng tác với các báoVăn, Tân Văn, Bách Khoa, Nghệ thuật... ở Sàigòn và hiện nay vẫn thường xuyên gửi bài in trên các sách báo văn học trong-ngoài nước. Ý kiến của Trần Thiện-Đạo sẽ như một liều thuốc đắng, may ra giã được một số tật cố hữu trong địa hạt dịch thuật của Việt Nam.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34248)
Trước 30-04-1975 Thế Phong là một nhà văn quân đội. Ưu điểm của Thủy và T6 nằm ở giọng văn chuyển tải suy nghĩ nhân vật liên tục không chấm dứt, qua đó, người đọc bắt gặp thủ đô Sàigòn về đêm. Một thủ đô phù phiếm dù mặt trận kề cận. Một Sàigòn vừa trải qua Đảo Chánh đã chờ đợi Chỉnh Lý. Thế Phong ghi lại tâm trạng bấp bênh của xã hội miền Nam mà các chi tiết vũ trường, thao thức nhân vật có thể chuyển hoán cho hôm nay, bây giờ. Bối cảnh truyện xảy ra năm 1964, năm khởi đầu của nền đệ nhị Cộng Hoà.(TCHL)
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 35077)
C ánh tay tôi rơi dài bên tôi, tựa tiếng thở sâu từ ngàn năm trước. Tôi thở mơn man, dịu dàng trên đồi cao cùng người tình xa xứ đáng thương. Tôi thở lười biếng, hão huyền bên người đàn ông dậy nực phù sa sông Hồng. Tôi thở không thành tiếng trên triền cát vàng tựa chiếu chỉ vua ban, nghẹn ngào nuốt sâm quý hắc mùi đền đài Trung Hoa. Tôi thở dồn dập kích động, rên hú thanh quản từng hơi trong căn phòng Tim. Nước sông Hồng mùa đông cạn ráo. Dầu cho Hồ Tây tràn nước ra đường, sương mù dăng trắng thành phố. Không khí ẩm ướt đọng thành vũng trong những ngôi nhà phố cổ. Không ai, không gì biết đến sự tồn tại của tôi. Đồng loã cùng thân thể mát thơm, uốn dẻo và trái tim hỗn mang của tôi là màu đêm tối.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34282)
Tôi xô nó ra nói thôi mà, làm ở trong chùa tội chết. Nhưng thằng nhỏ giờ phút này còn có biết gì nữa, công an nó còn chưa sợ, sợ gì tội. Tôi ngó lên bức hình ông Quan Công trên bàn thờ, tôi nói coi chừng cái ông cầm cây Thanh Long đao kìa. Danh bước đến thổi tắt phụt ngọn đèn dầu. Trong phòng bỗng tối mực. Danh đã cởi áo tự hồi nào. Nó kéo tôi nằm ngữa ra nền xi-măng. Bóng tối như đêm làm cho dạn dĩ hơn, không còn mặc cảm tội lỗi nữa, tôi ôm Danh với tất cả ham mê. Thằng nhỏ tuổi trẻ mà tài cao. Nó làm tình như giông, như bão.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33203)
...Trong hoàn cảnh hiện nay, người làm văn học, trong hay ngoài nước, đặc biệt là giới trẻ, đang có cơ hội và khả năng tạo một sinh khí cho xã hội VN, giúp giảm thiểu những phá sản tinh thần đang xẩy ra. Muốn vậy, rất cần có sự đam mê, học hỏi, và lòng can đảm nói thật, viết thật. Không có nền văn học có giá trị nào được xây dựng trên sự giả dối và tránh né.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 41182)
T ừ ngày 7/3/1975, khi Văn Tiến Dũng bắt đầu cô lập Ban Mê Thuột, tới ngày 30/4/1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, vừa chẵn 55 ngày. Thật khó ngờ chỉ trong vòng 55 ngày và 55 đêm mà đạo quân hơn một triệu người–có hơn phần tư thế kỷ kinh nghiệm tác chiến, với những vũ khí khá hiện đại như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa [VNCH]– bị sụp đổ hoàn toàn [...] Những hình ảnh điên loạn mà ống kính các phóng viên quốc tế thu nhận được chẳng khác cảnh vỡ đê trước con nước lũ, hay sự sụp đổ của một tòa lâu đài dựng trên bãi cát, khi nước triều dâng lên.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33372)
c ắm que nhang tưởng niệm cho ngày ra đi thấy niềm cô đơn một lần nữa trở lại đêm soi gương sâu hút ánh mắt thoai thoải đường cong li tâm ấm ức
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 35903)
X uân Lộc là nút chặn đường tiến vào Sài gòn của quân Bắc Việt. 35 năm, thời gian tuy dài, nhưng có khi không thể xóa nhòa một vui buồn, huống chi những mất mát đớn đau trong đời người. Trong ký ức của người dân Long Khánh, và người dân miền Nam, trận chiến Xuân Lộc, không thể phôi pha.