- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

BÊN NÀY THÌ VUI HƠN BÊN KIA

12 Tháng Mười 20187:27 CH(Xem: 23343)

nguyen thi hau
Nhà văn Nguyễn Thị Hậu




Trên con đường dẫn ra ngoại ô của thành phố P. có một đoạn đường mà bên kia là nhà tù còn bên này có một khách sạn nhỏ và quán cà phê.

 

Nhà tù ngăn cách với bên ngoài bằng bức tường gạch không cao lắm nhưng chắc chắn, phía trên không có những vòng thép gai hay mảnh thủy tinh như thường thấy ở nhiều nhà tù khác. Góc hai bức tường gặp nhau là một “cổng giả” hình vòm cuốn, phía trên có dòng chữ “Nhà tù trung tâm” bằng kiểu chữ nghiêm ngắn màu xám, sự khác biệt duy nhất trên bức tường dài màu nâu sẫm cho biết chức năng của các tòa nhà bên trong mà mới nhìn trông giống như một chung cư bình dân.

 

Khách sạn là tòa nhà cũ có 3 tầng, những cửa sổ bằng gỗ sơn màu xanh cũ kỹ nhưng sạch sẽ, luôn rộng mở, cửa kính trong veo phất phơ rèm trắng, chậu hoa tươi tắn trên bệ cửa sổ. Tầng trệt là quán cà phê cũng là sảnh khách sạn. Dưới bảng hiệu có dòng chữ trình bày kiểu cọ vui mắt “Bên này thì vui hơn bên kia”. Ai đi qua nhìn thấy mấy chữ này cũng phải mỉm cười, ờ thì đúng rồi... Không biết nhà tù và quán cà phê cái nào có trước, chỉ biết là cả hai đã hiện diện từ khi nơi này còn là một làng nhỏ giữa cánh rừng thưa, xe ngựa đi gần ngày đường mới tới trung tâm thành phố. Nhưng khách sạn thì chỉ có khi một sân bay được xây gần đó.

 

Dân cư quanh vùng đã quen với cổng nhà tù có con đường nhỏ thỉnh thoảng vài chiếc xe bịt bùng ra vào. Nhìn vào chỉ thấy barie trạm gác, vườn hoa và hàng cây cao vút, xa hơn là những ô cửa sổ của mấy dãy nhà nhiều tầng mỗi tối sáng đèn đến khoảng 9g thì đồng loạt tắt. Xung quanh, bên ngoài bức tường là con đường nhỏ xanh mát, hàng ngày người lớn trẻ nhỏ vẫn đi lại trên vỉa hè, chiều tối dưới lòng đường hàng dài xe hơi đậu qua đêm. Thỉnh thoảng một nhóm hoặc vài người mặc thường phục từ phía trong đi ra. Qua khỏi cổng họ ôm hôn nhau và chia tay. Có người được người thân đến đón bằng xe hơi nhưng phần lớn bọn họ đi đến bến xe bus gần đó hoặc đi xa hơn đến ga metro, họ tách ra đi một mình, lơ đãng ngắm nhìn đường phố hoặc cắm cúi đi nhanh. Sau vài phút lao xao nơi này trở lại yên tĩnh.

 

Một buổi sáng có một người từ cổng nhà tù đi ra, đứng tần ngần ở cổng rồi chậm rãi đi ngược qua bên kia đường. Đó là người đàn ông nhìn qua khó đoán tuổi, vóc dáng cao ráo, mái tóc bạc trắng nhưng gương mặt còn khá tinh nhanh, có lẽ ông chưa đến tuổi 60. Trong bộ quần áo vừa vặn, còn mới, là mode của khoảng mươi năm trước, ông bước vào quán cà phê bằng bước chân nhẹ nhàng có gì đấy đầy cẩn trọng. Đến bên chiếc bàn cạnh cửa sổ, trong tích tắc ông quyết định ngồi xuống chiếc ghế nhìn về phía cửa. Ông gọi một tách cà phê, mở tờ báo ai đó để trên bàn ra đọc... Khi cà phê được mang đến, ông ngẩng lên nhìn quanh rồi dừng lại ở chiếc đồng hồ treo phía sau quầy hàng.

 

Trên tay ông không đeo đồng hồ như nhiều người đàn ông khác, cũng không thấy ông có điện thoại như mọi người bây giờ. Ông chăm chú nhìn chiếc đồng hồ cổ đang tích tắc với con lắc đong đưa đều đặn, vẻ mặt thoáng buồn... Chậm rãi uống cà phê, ông cầm miếng đường nhỏ ngắm nghía rồi bỏ vào miệng, ngậm một chút và nhai ngon lành như một cậu bé. Nụ cười thoáng qua làm ông trẻ hẳn ra. Tách cà phê đã hết, tờ báo cũng đã được đọc đi đọc lại... Như đã quen với những vị khách như thế, người phục vụ mang đến một tờ tạp chí và chai nước lạnh. Ông khẽ cám ơn và lại chăm chú đọc...

 

Thời gian chậm chạp trôi qua... quán cà phê có khách rồi lại vắng khách. Người đàn ông vẫn ngồi đọc tờ tạp chí mà không ngẩng lên lần nào như không muốn ai nhìn thấy mình. Khi chiếc đồng hồ buông tiếng chuông báo 12 giờ người khách giật mình dợm đứng dậy, nhưng cũng rất nhanh ông sựng lại, ngồi yên trên ghế, hai tay ông từ từ ôm lấy mặt như bị một cơn choáng bất ngờ. Đây là tiếng chuông ông đã chờ đợi nhiều năm… ngay lúc đó một người phụ nữ bước vào quán cà phê.

 

Người phụ nữ đứng tuổi thân hình mảnh mai, nước da hơi khô phủ một lớp phấn mỏng để che bớt gương mặt xanh xao. Mái tóc xoăn xoăn trước trán, đôi mắt to đượm buồn còn giữ được nét đẹp của thời thanh xuân. Chị bước nhanh về phía ông gần như nhận ngay ra ông, và lao vào vòng tay ông khi ấy vừa kịp đứng lên.

 

Họ ngồi đối diện, im lặng, tay đan vào nhau. Ông hôn mãi những ngón tay gầy của chị. Còn chị cứ áp bàn tay ông vào đôi má nóng bừng như đang sốt của mình... Rất lâu, họ vẫn không nói gì. Rồi đồng hồ điểm chuông... rồi lại vội vã điểm chuông. Chị chợt tỉnh, chậm rãi đứng lên như hết hơi hết sức... Ông bước đến ôm siết đôi vai chị đang run lên rồi gần như ông đẩy chị ra khỏi vòng tay mình và ngồi phịch xuống ghế, quay đầu nhìn ra cửa sổ. Ngoài đó... một chiếc xe hơi vừa lướt qua. Trưa tháng bảy nắng đến nhòa mắt...

 

Đến lúc cũng phải đi thôi. Qua quầy hàng ông nghiêng mình cám ơn một cách trịnh trọng và tự nhiên như một quý ông... Đứng dưới bảng hiệu quán cà phê “Bên này thì vui hơn bên kia” ông nhìn sang “Nhà tù trung tâm”. Có lẽ phải ngược lại mới đúng. “Bên kia” là nơi ông đã gửi lại gần cả cuộc đời nhưng “bên này” lại là nơi tuổi trẻ vừa rời xa ông, mãi mãi...

 

***

Tôi được nghe chính người phục vụ quán cà phê kể câu chuyện này trong lần đến P. vừa rồi. Bây giờ anh không còn làm ở đấy nữa, quán cà phê và khách sạn đã đóng cửa. “Bên này” đang xây dựng một siêu thị nhưng nhà tù thì vẫn ở “bên kia”.

Thật thế, anh nói, chẳng biết bên nào vui hơn... Khi hiện diện trong cuộc đời này là chúng ta đã ở trong một thế giới cũng chật hẹp và nhiều ràng buộc như phía “bên kia”. Chỉ khi nào số phận đã “hết hạn” ta sẽ trở về một nơi nào đó, như “bên này”... Biết đâu sẽ vui hơn…

NGUYỄN THỊ HẬU

Sài Gòn ngày 18.8.2018
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 105219)
D ưới tiểu tựa Vài Vấn Nạn Lịch Sử Thế Kỷ XX, tác giả đưa ra hai vấn nạn từng bị xuyên tạc trầm trọng bởi các hệ thống tuyên truyền của nhiều hơn vài ba thế lực chính trị. Vấn nạn thứ nhất là vai trò nhà ngoại giao của ông Hồ Chí Minh (1892-1969), Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ 1945 tới 1969, trong giai đoạn 1945-1946, một giai đoạn cực kỳ quan trọng cho sự sống còn của nhà nước Việt Nam hiện nay [...] Vấn nạn thứ hai là cuộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, trên bối cảnh liên hệ ngày một xấu đi giữa Bộ Ngoại Giao Mỹ và chính phủ Ngô Đình Diệm trong hai năm 1962-1963...
16 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 88646)
H iệp ước sơ bộ 6/3/1946 [Convention priliminaire de 6 mars 1946] là văn kiện ngoại giao đầu tiên ký giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] với đại diện Cộng Hòa Pháp tại Đông Dương, qua trung gian chính phủ Trùng Khánh. Mặc dù chỉ có tính cách tạm thời, văn kiện này công nhận sự hiện hữu của VNDCCH. Nó chính thức cải biến, nói theo các viên chức Bri-tên và Pháp, một thực thể chính trị “sinh ra trong hỗn loạn” thành một chính phủ lâm thời, của một “nước tự do” [un état libre] “có quốc hội, quân đội, tài chính và ngoại giao riêng,” nằm trong Liên Bang Đông Dương và Khối Liên Hiệp Pháp.( 1)
15 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 101227)
N hạc sĩ Phạm Duy có cái nhìn xuyên suốt, không rào cản so với nhạc sĩ cùng thời. Người lắng nghe giao thoa những tiến triển nền âm nhạc Việt so với thế giới từ những năm 1930 cho đến nay.Từ cái bắt gặp đầu tiên trên bộ đồ bà ba xanh, đôi mắt sáng trên vành tai thính âm tài hoa ấy. Nhạc sĩ Phạm Duy chợt cười, nụ cười nhéo mắt luôn điểm lại con người ấy từng nốt nhạc vượt không gian thời gian. Hồn nhiên Phạm Duy cười nói: : “Tôi có hai con mắt, một con trái mắt tỉnh tảo thực tế với dòng đời. Và mắt phải luôn làm việc sáng tạo.” Cuộc phỏng vấn sau đây ghi lại một vài nét về cuộc đời nhạc sĩ Phạm Duy với thế hệ trẻ tại Việt Nam đang muốn cùng ông bày tỏ tâm sự.
14 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 96191)
T rong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết có bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89119)
T rần Hoài Thư đến với văn chương rất sớm, sớm hơn truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1965. Và nếu phân chia các giai đoạn văn học miền Nam theo cách của Võ Phiến (xem Văn Học Miền Nam, tập tổng quan, nxb Văn Nghệ, Hoa Kỳ 2000) thì Trần Hoài Thư được xếp vào ( Những Cây Bút Trẻ , theo cách gọi thời đó) giai đoạn 1964-1975 giai đoạn mà chiến cuộc bắt đầu bùng nổ dữ dội.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 118424)
Đ ó là Tetbury, một thành phố thơ mộng nằm về phía nam Luân Đôn khoảng 200 cây số (?).Tôi chỉ nhớ phải mất ba giờ lái xe để đến nơi. Thành phố nhỏ, những con đường dốc, hẹp. Nhà với mái xuôi nhọn hoắt, nằm liền nhau, phần lớn mở shop bày bán đồ cổ, quán ăn uống, tiệm cà phê.
08 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 104928)
... k ể từ hôm nay(Oct 8-2011) , người ta không còn mua vi cá ở California được nữa. Thống Đốc tiểu bang California đã ký ban hành luật cấm thủ đắc và bán vi cá nhập cảng vào California. Trong bản tuyên bố sau khi ký ban hành luật, Thống Đốc Jerry Brown nói rằng việc cắt những vi của những con cá mập còn sống và ném thân chúng xuống biển không những là hành động tàn bạo mà còn làm ô nhiễm nước biển.
07 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 103216)
T in Stockholm - Thi sĩ Tomas Transtromer của Thụy Điển đã được chọn trao giải Nobel Văn chương. Đây là lần đầu tiên trong vòng 30 năm giải Nobel Văn chương được trao cho một người Bắc Âu.
07 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 112353)
T in Stockholm – Thi sĩ nổi tiếng Tomas Transtromer đã được chọn trao giải Nobel Văn chương sau khi bị đứt mạch máu não cách nay 20 năm. Tai biến đã làm giới hạn khả năng nói chuyện của thi sĩ, nhưng không làm giảm khả năng viết lách.
07 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 98293)
K hi đánh giá về ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tác giả đã đẩy ngôn ngữ bình dân lên ngôn ngữ bác học. Nhận định này đã gián tiếp phân cấp ngôn ngữ ca dao hò vè với ngôn ngữ thơ.