- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NGƯỜI ĐÀN BÀ GÓA Ở PHỦ BÌNH GIANG

23 Tháng Năm 20182:17 SA(Xem: 24556)


NguoiDanBaGoa
ảnh minh họa - internet

Vĩnh Hưng sưu thuế nặng nề

Bồng con dẫn vợ tôi về quê tôi

 (ca dao)




Tưởng rằng chỉ ở thời Tây, dân ta mới khóc ra máu mắt vì sưu cao thuế nặng. Ngoài đồng thì có thuế ruộng, trong nhà thì phải đóng thuế vườn rồi đến thuế thân v.v… Nay mới biết ở xã Ân Phong tỉnh Bình Định, người dân nuôi vịt muốn thả vịt ra đồng cho chúng nhặt hạt thóc rơi cũng phải nộp phí cho chính quyền địa phương. Ở xã Thiệu Dương, Thanh Hóa, người dân chăn thả trâu bò cũng phải nộp phí. Phí thả một con trâu lên đến cả 100.000 đồng, còn muốn nuôi trâu lại là chuyện khác nữa, phải đóng tiền cọc cho hợp tác xã từ ba trăm ngàn đến hai triệu đồng!

Thế mới biết bàn tay Thực dân còn êm ả hơn bàn tay lãnh đạo CS. Nghe người dân kêu gào vụ chính phủ đánh thuế tài sản rồi nghe đến phí thả vịt, thả trâu, chưa biết hư thực ra sao nhưng cứ nhìn hình ảnh những biệt thự “khủng” của các quan chức địa phương mới thấy bộ máy nhà nước này toàn là bọn sâu mọt. Chạnh nhớ cái tờ đơn trình quan về việc con trâu chết của người đàn bà góa ở Phủ Bình Giang ngày xưa.

Thuở ấy, ông Nghè Tân (Bắc Kỳ Thanh Tra Đại thần, Tiến sĩ Nguyễn Quý Tân) nhân một hôm đi ngang cánh đồng Phủ Bình Giang thấy một người đàn bà đang mếu máo, nhớn nhác tìm kiếm một vật gì. Gặng hỏi thì được biết người đàn bà này góa chồng, có một con trâu mới chết, bà đã đóng 2 quan tiền cho lý trưởng làm đơn, đóng triện để lên trình quan phủ. Vội vàng làm sao bà đánh rơi mất tờ đơn. Nay đường về làng thì xa, trong cái ruột tượng xác xơ kia chỉ còn 6 quan tiền để lễ quan phủ và nha lại lấy đâu ra tiền để nhờ người viết đơn!

Nghe chuyện, quan thanh tra ra giận lắm. Ông xót thương dân đen bị bọn lý dịch quan nha ức hiếp, bèn nhận thảo giúp tờ đơn, tay đề ngay một bài thơ gởi quan phủ về chuyện chúng ăn bẩn trên váy đàn bà. Bài thơ như một lời than thống thiết. Càng viết, ngài càng giận và chấm dứt bằng một câu mắng. Bài thơ như sau:

Bởi tôi là phận nữ nhi

Có con trâu chết phải đi trình ngài

Vội vàng váy tụt, đơn rơi

Tôi mượn một người làm cái đơn ni

Quan tri ơi hỡi quan tri

Xin ngài chấp nhận đơn ni làm bằng

Nếu quan có hỏi "mần răng"...

Thì quan cắn cỏ lạy thằng làm đơn!

Bọn quan phủ nhận thơ, bị một phen sợ mất mật. Từ đó trở đi, người dân phủ Bình Giang có trâu bò chết không phải đóng thuế, chỉ cần khai với lý dịch của làng là đủ. Khi có chuyện lên trình quan phủ cũng không phải đóng hai quan tiền như trước nữa.

Ngày nay nhìn quanh, quan thanh tra rặt những phường như Nguyễn Thanh Hóa, Phan Văn Vĩnh,… quan điều tra tội phạm đánh bạc lại “bảo kê” cho đường dây đánh bạc. Ông nào cũng ở cấp tướng trở lên, lại mang huy chương đỏ cả ngực. Tướng Phan Văn Vĩnh từng được phong tặng danh hiệu là “Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân” có một dạo người ta còn đưa các phương pháp phá án của ông tướng “đánh bạc” này vào giáo trình nghiệp vụ để đào tạo cho các thế hệ công an!

Xưa đi thanh tra, Nguyễn Quý Tân còn phải giả dạng thường dân mới lôi cổ được bọn tham quan ra ánh sáng. Ngày nay, dân nghèo Thủ Thiêm gào khóc đến ngất xỉu trong buổi gặp gỡ với các ngài ĐBQH; thế mà Hội nghị Trung Ương 7 vẫn lạnh lùng diễn ra, chẳng có một đề án nào nhắm vào giải quyết những oan sai cho người dân. Chả trách tám năm trước, ở quận Cái Răng, Cần Thơ, quá phẫn uất hai người phụ nữ Việt Nam, mẹ con bà Lài đã phải tụt cả váy, lõa thể để chống lại lực lượng cưỡng chế đất.

Ngày còn thực dân, cha ông ta còn bồng con, dắt vợ về quê tránh thuế; nay thả con trâu còn phải trả phí thì đi đâu mà tránh thuế? Người dân cùng đường, lõa thể để giữ đất mà còn bị lôi như con vật thì đi đâu mà đòi nhân phẩm? đi đâu mà đòi nhân quyền?

Bảy năm trước, TNLT Nguyễn Đình Cương, một trong 17 thanh niên yêu nước bị bắt vào năm 2011. Khi gã cán bộ trại giam xúc phạm, gọi anh và các bạn tù là một lũ chó, các tù nhân đã phản đối bằng cách mười mấy người cùng nhau tuyệt thực. Khi cho đòi anh Cương đi làm việc, gã cán bộ trại giam đã xích hai tay anh dưới chân cầu thang như xích chó, để buộc anh phải ngồi dưới đất trong khi hắn ngồi trên bàn. Một điều mà gã cán bộ kia không biết, trước mắt thế giới, kẻ ngồi trên bàn và người ngồi dưới chân cầu thang kia, vị trí chỗ ngồi không hề nói lên ai là con người, ai là con vật.

Ngày ấy, Bí Thư Thành Ủy thành phố Sài Gòn, ông Đinh La Thăng còn đang tại chức, còn ngồi ngất ngưởng trên cao; chỉ kịp đến khi ông trở thành tội phạm, ông mới nhận ra hết cái man rợ của cái thể chế này. Trong phiên tòa ngày 24/3, cả nước chợt ngẩn ngơ khi nghe ông rụt rè xin với các đồng chí của ông trong Viện Kiểm Soát: “Hãy đối xử với bị cáo như số phận một con người”.

Cứ ngỡ rằng chỉ ở thời thực dân, Tây nó văn minh, có tàu bè, súng đạn; dân ta dốt, nghèo mới phải bị nô lệ. Nào ngờ, cả nước văn minh vẫn cam tâm làm nô lệ cho một nhóm lãnh đạo bất xứng! Chúng lạm quyền, tự tung tự tác, tự cho mình là cha mẹ của muôn dân. Chúng chỉ vẩy tay một cái là bao nhiêu người lương thiện phải vào tù, ảnh hưởng bao cuộc đời và gia đình, người thân của họ.

Ngoài khơi xa thì mất đảo mất ngư trường, nơi đất liền thì thương nhân Trung Quốc dùng tiền chiếm nốt. Trong một video clip của VOA, ở Duy Hải, Duy Xuyên, Quảng Nam, những bờ biển, bãi dương liễu, rừng chắn gió đã bị bán sạch. Một sớm mai thức dậy, con đường của ngư dân ra biển kiếm ăn hàng ngày bây giờ đã bị rào chắn bởi kẽm gai hay bê tông cốt sắt. Ngư dân đất Quảng lạc lõng ngay trên mảnh đất của ông cha mình.

Không thể than trời, trách đất là chúng ta sinh chẳng nhằm thời; cha ông ta đã có lúc phải trải qua những giai đoạn còn đen tối hơn thế. Có trách là trách chính mình, trách dân ta không chịu đứng thẳng cho điều phải, không sống đúng với cái giá trị mà mình muốn sống. Ngày xưa dân ngu, dân dốt đã đành, thời buổi công nghệ thông tin mà vẫn cúi đầu cam chịu. Thế giới đã tiến xa, đã bỏ ta hàng thế kỷ về thịnh vượng và văn minh. Ngoái nhìn lại đất nước mình, chợt xót thương cho thân phận mẹ VN; sau hàng ngàn năm văn hiến, cuối cùng cũng chịu cảnh bị ức hiếp; cũng xác xơ ruột tượng chẳng khác nào hình ảnh người đàn bà góa ở Phủ Bình Giang ngày xưa.

 

Nguyệt Quỳnh

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 89940)
...Chết tuy biết vì sao mình chết, do đâu mình chết mà không làm gì được. Chết một lần dưới làn đạn Tây dương. Chết thêm một lần về tinh thần bởi lòng trung bị khủng hoảng, bị phản bội, ấy là thời đại của những con người như Hoàng Diệu, ấy là những anh hùng cứu nước như Hoàng Diệu...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75761)
Hợp Lưu 112 Xuân Tân Mão 2011 , đến với bạn đọc và văn hữu khắp nơi trong tiết trời lạnh hơn mọi năm. Một năm đã trôi qua với bao biến động trên thế giới ngày nay, và cũng là một năm có nhiều đổi thay nơi quê nhà. Dù đang ở nơi nào, tâm hồn người Việt vẫn luôn hướng về; mong mỏi đổi mới, cải thiện cho một xã hội tốt đẹp hơn. Mùa Xuân là biểu hiệu của khởi đầu và hy vọng, cũng là dịp cho chúng ta suy gẫm và nhìn lại một năm đã qua.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 103874)
...Tôi đến Trường Chu Văn An trên đường Thụy Khuê, vào phía sau sân trường tìm bãi cỏ nhìn qua Hồ Tây để nhớ đến nụ hôn đầu tiên Kiên bỡ ngỡ đặt lên môi Phương trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Bãi cỏ xanh mướt ngập đầu lưu giữ tình yêu đầu tiên của Kiên không còn nữa. Nếu giờ đây, Phương cũng đã đi nước ngoài và lấy chồng ngoại quốc, nụ hôn của Kiên trao cho Phương, chính tôi nhận và giữ hộ...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 87270)
Larsson lìa đời trước khi đứa con tinh thần, bộ tiểu thuyết thuộc loại trinh thám, Millennium Trilogy, gồm ba cuốn, mà ông đã viết vào mỗi tối như một trò giải trí cho thần kinh bớt căng thẳng, ra đời sáu tháng sau khi ông ký giao kèo với một nhà xuất bản Thụy Điển, Norstedts Förlag, nhà xuất bản thứ hai Larsson liên lạc và ký giao kèo, sau khi gửi cho một nhà xuất bản thứ nhất tới hai lần mà gói sách không hề được mở ra.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92744)
Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng Tư 1975, chúng tôi có cái hân hạnh được Công đoàn bảo hiểm Pháp ( Fédération Française des Sociétés d’Assurance ), qua thỏa ước với Bộ Tài chánh CHXHCNVN, gởi về nước cùng với một số nhà giáo Pháp giảng dạy bộ môn Bảo hiểm còn mới này trong trường Đại học Tài chính và Kế toán Hà nội - nay trường đã lột xác trở thành Học viện Tài chính.
14 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 109390)
Về đi thôi nhật ký ngày chân đất Gốc đa già bà kể lá bùa yêu Em ôm giấc thị thành nửa mùa cổ tích Hỏi gió trời sao giấu lá bùa yêu 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 84467)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83508)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75836)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80640)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.