- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

XUÂN BÍNH THÂN - CHÚC CHÚNG TA TÌM ĐƯỢC “THEIN SEIN”

08 Tháng Hai 20162:29 CH(Xem: 27688)
XBThan-nguyet quynh


Trong cái không khí ảm đạm của tình “đồng chí” những ngày cuối năm, sau Đại Hội Đảng 12,  tôi lại tha thiết muốn viết về tình yêu.

Tại sao vậy? Bởi khi chấm dứt cũng là điểm khởi đầu. Cái khoảnh khắc con sâu hoá bướm là sự kết thúc chuỗi ngày của nó trong cái tổ kén. Ngày cuối năm sẽ chấm dứt để bắt đầu một mùa xuân mới, và thói quen người Việt chúng ta là “tống cựu nghinh tân” để cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp nhất trong ngày đầu năm. Do đó, bài viết từ giã năm cũ, tạm quên những hy vọng kéo dài đến thất vọng của thực trạng đất nước, tôi xin được viết về tình yêu.

Ở đây tôi muốn nói đến cái nghĩa rộng của tình yêu, không nhất thiết là tình cảm trai gái. Khi con người biết yêu thương, cảm thấy yêu thương thì cùng lúc họ trở nên hạnh phúc. Tôi nói điều này mà không cần minh chứng vì tin rằng ai ai cũng cảm hết được nỗi ấm áp khi biết mình được yêu thương hoặc khi mình yêu thương ai đó.

Thi sĩ Tagore, người được mệnh danh là “người tình của nhân loại” đã nói lên sự diệu kỳ của lòng yêu thương nơi con người. Trong bài thơ “Người Làm Vườn”, Tagore kể chuyện về một thương lái rời gia đình, chia tay vợ  để đi làm ăn. Không may, chàng thua lỗ, trở về trắng tay. Đã mất tiền, nay chàng lại đối diện với nỗi lo mất vợ, mất tình yêu. Chàng trở về nhà vào lúc nửa đêm, hoang mang, mệt mỏi, lo lắng:

Tôi trở về nhà vào lúc nửa đêm

với hai bàn tay trắng

Em đợi tôi ngoài cửa với đôi mắt lo âu

Lặng im và thao thức

như một con chim e sợ

Em bay đến lòng tôi yêu mến, nồng nàn

Ôi! Chúa ơi, tôi còn lại rất nhiều

Từ tâm trạng hoang mang của một kẻ thất bại, mất trắng, thế mà chàng trai đã thảng thốt kêu lên với lòng mình: Ôi, chúa ơi, tôi còn lại rất nhiều. Đủ hiểu những điều kỳ diệu trên đời này thường đến với chúng ta từ cánh cửa của yêu thương.

Nhưng nói về tình yêu giữa bối cảnh cuộc tranh giành quyền lực của các vị lãnh đạo đất nước như “một thảm kịch hỗn loạn” trong Đại Hội Đảng 12, dường như là một điều ngớ ngẩn!? Không hẳn vậy, có lần tôi cũng đã được nghe trong một bối cảnh tương tự. Vào khoảng năm 1979, thời mà cả đất nước đang phải ăn cơm độn bột mì và bo bo; chúng tôi xếp hàng trước một cửa hàng rau quả để được mua phân phối bầu và rau muống. Có lẽ do cô bán mậu dịch hôm đó không khéo, hoặc có lẽ vì bầu thì có quả tươi quả héo cho nên mới xảy ra một cuộc cãi vã, tranh giành gay gắt giữa những người trong hàng với nhau. Trong không khí căng thẳng, tưởng như sắp xảy ra cảnh thượng cẳng chân hạ cẳng tay thì chúng tôi nghe một giọng nói nhỏ nhẹ của một vị cao niên vang lên ở cuối hàng:

“Các đồng chí ơi, ngày xưa ở trong rừng mình chia nhau từng miếng cơm hẩm, mình chia cả mạng sống cho nhau. Sao bây giờ hòa bình rồi, có quả bầu thôi, mà các đồng chí lại thế!”

Câu nói của vị đảng viên lớn tuổi lúc ấy làm không khí chùng hẳn lại, mọi người im lặng … rồi nhìn nhau với ánh mắt áy náy. Tình cảm của con người thật lạ kỳ. Quả bầu ngày xưa, hay gì gì đi nữa của ngày hôm nay thì cũng chỉ là quả bầu, nó không thể lớn hơn mạng sống của người đồng chí, càng không thể lớn hơn những mục tiêu cao cả của những người lãnh đạo đất nước. Hình như có một thành tố quan trọng nào đó của tình yêu đã bị lãng quên hay bỏ sót, khiến đời sống chúng ta ngày nay trở nên cô độc, sợ hãi, tham lam, độc ác, … và thiếu hẳn hạnh phúc.

Hoá ra, đối tượng đích thực của yêu thương không phải là đích đến “Yêu ai? Yêu cái gì? Yêu bao nhiêu?” mà chính là “diễn trình sống thật” với những giá trị cốt lõi tốt đẹp đến từ niềm ước muốn chung của mọi người và cả môi trường xung quanh. Tôi tin rằng các giá trị này vẫn ẩn mình ngay nơi chốn và thời khắc mình đang hiện hữu.

***


Tự bao giờ, người Việt chúng ta bỏ quên những điều cốt lõi, đời sống tinh thần, văn hóa của nhiều thế hệ; để cuối cùng nhận ra rằng hàng ngày mình đang phải sống trong một xã hội xuống cấp đến vô cảm. Nếu ngày xưa, chúng ta vẫn thường tự hào về lối sống nhân ái, vị tha, đùm bọc “thương người như thể thương thân”… thì đâu rồi cái nếp văn hóa ấy? Phải chăng môi trường sống tại VN ngày nay đang giết chết dần những điều tốt đẹp, và chúng ta, vô tình lại là những người trợ giúp và tạo nên môi trường này.

Tôi có cô cháu gái được qua Nhật học ba tháng trong chương trình trao đổi học sinh. Chỉ mới tuần đầu tiên, lơ đãng cháu đã bỏ quên giỏ xách trong nhà vệ sinh một tiệm ăn ở Nhật. Trong giỏ xách có đủ cả tiền bạc, giấy hộ chiếu, thẻ tín dụng... Khoảng hai mươi phút sau mới nhận ra, cháu hớt hải quay trở lại tìm kiếm. Giữa đường cháu gặp một phụ nữ Nhật đang cầm cái bóp của cháu trên tay, bà vừa nhìn hình trong thẻ học sinh của cháu vừa nhìn chung quanh để tìm cháu. Cả hai đều mừng rỡ khi gặp nhau, người phụ nữ mừng vì tìm được cô học sinh đã để quên cái bóp. Cháu thì mừng và cảm động vì sự tốt bụng của người phụ nữ kia.

Chính phủ Nhật chắc chắn đâu có cất công dạy dân mình những điều chi tiết đó, nhưng người phụ nữ kia, tôi nghĩ ngoài lòng thương người có lẽ bà còn nghĩ đến danh dự của nước Nhật. Bà không muốn một người ngoại quốc bị mất bóp trên đất nước mình.

Giá mà 5 người Việt bị bắt ở Thái, 2 người Việt bị bắt ở Singapore vì các tội trộm cắp; trước khi hành động, họ nghĩ đến danh dự của dân tộc mình. Giá mà các nhân viên phi hành đoàn VN, trước khi chuyển đồ ăn cắp ở Nhật cũng nghĩ đến danh dự của dân tộc mình. Giá mà Đại tướng Phùng Quang Thanh khi họp với người Trung Quốc, trước khi ngồi xuống bàn với cái bảng tên của mình được viết bằng tiếng Tàu; ông nghĩ đến danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Giá mà lãnh đạo chúng ta, trước khi ngửa tay nhận một tỉ nhân dân tệ của Tập Cận Bình, họ nghĩ đến thi hài của các ngư dân và những con tàu vỡ nát bị đâm chìm trên biển. Giá mà người trồng rau chỉ trồng một vườn rau “sạch” để ăn và bán cho đồng bào mình…Giá mà mỗi người trong chúng ta chịu nghĩ đến người khác một chút, hay một giá trị chung bên cạnh món lợi riêng của mình.

Người phụ nữ Nhật kia, một mình bà thôi, cũng đã làm nên bản sắc của nền văn hóa Nhật. Tôi nghĩ mỗi hành động bằng ý thức và tình yêu thương của mỗi người dân VN; chắc chắn sẽ thay đổi được tình trạng xuống cấp, vô cảm của xã hội. Như bao quốc gia CS khác, bước vào những năm thứ 70 của XHCN, chúng ta đã đụng đáy. Dân tộc Việt Nam đã hoàn toàn mất trắng, ba mươi năm chiến tranh tiêu phí biết bao xương máu của người dân cả hai miền, để bây giờ là một nền hòa bình đói nghèo, tụt hậu cả về vật chất lẫn linh hồn. Nhìn hình ảnh cuộc tranh giành sống mái của lãnh đạo, người dân còn trông mong nỗi gì! Sự thay đổi phải bắt đầu từ mỗi chúng ta.

Cuộc bầu cử dân chủ thành công của Miến Điện đã làm nhiều người Việt Nam ước mơ. Cảm động nhất là sự thiết tha và những giọt nước mắt của Ls Nguyễn Văn Đài. Trả lời trong một cuộc phỏng vấn với đài Á Châu Tự Do, anh bảo: “… tôi cảm thấy rất là xúc động, cái cảm giác như là nước mắt trào ra khi mà Myanma có cuộc bầu cử có tự do và đảng đối lập đã dành thắng lợi đó thì mình mừng cho họ 1 phần vì đất nước mình cũng rất gần vì 2 nước đều nằm trong khu vực Đông Nam Á đều là thành viên của Asean trong khi đó trình độ phát triển của Myanmar thấp hơn VN rất là nhiều, họ cũng đã bị cai trị quân sự đến hơn nửa thế kỷ nhưng mà sự đấu tranh rất là kiên cường, dũng cảm của người dân thì bên này họ đã gặt hái được kết quả thành công.”

Sự phát triển của Myanmar có thể thấp hơn VN rất nhiều, nhưng lòng ái quốc của họ thì không. Ông Ko Ko Gyi, người đứng đầu Thế Hệ 88. Chàng sinh viên ngồi tù 17 năm, người lãnh đạo phong trào đấu tranh chống độc tài quân phiệt từ những năm 1988 đã hãnh diện chia sẻ: “chúng tôi đã thay đổi quốc gia này mà không cần bạo động”. Những Ko Ko Gyi là những Ansan Suki  thầm lặng; hàng ngàn những con người thầm lặng đó đã làm nên sự thay đổi tuyệt vời cho Miến Điện. Chính sự khao khát một xã hội dân chủ và sự cương quyết của người dân đã buộc chính quyền Thein Sein phải thay đổi. Chính họ đã tạo nên Thein Sein.

Không một chính quyền nào có thể chống lại cái khát vọng của những con người muốn sống cuộc sống có nhân phẩm và sự tôn trọng. Bước sang những ngày đầu năm, hãy cùng chúc nhau một năm mới tràn đầy tình yêu thương. Hãy là những Ko Ko Gyi, mỗi chúng ta sẽ thay đổi cái xã hội vô cảm này bằng tình yêu thương.

Hãy là những Ko Ko Gyi chúng ta sẽ tìm được Thein Sein.


NGUYỆT QUỲNH
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 89940)
...Chết tuy biết vì sao mình chết, do đâu mình chết mà không làm gì được. Chết một lần dưới làn đạn Tây dương. Chết thêm một lần về tinh thần bởi lòng trung bị khủng hoảng, bị phản bội, ấy là thời đại của những con người như Hoàng Diệu, ấy là những anh hùng cứu nước như Hoàng Diệu...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75761)
Hợp Lưu 112 Xuân Tân Mão 2011 , đến với bạn đọc và văn hữu khắp nơi trong tiết trời lạnh hơn mọi năm. Một năm đã trôi qua với bao biến động trên thế giới ngày nay, và cũng là một năm có nhiều đổi thay nơi quê nhà. Dù đang ở nơi nào, tâm hồn người Việt vẫn luôn hướng về; mong mỏi đổi mới, cải thiện cho một xã hội tốt đẹp hơn. Mùa Xuân là biểu hiệu của khởi đầu và hy vọng, cũng là dịp cho chúng ta suy gẫm và nhìn lại một năm đã qua.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 103871)
...Tôi đến Trường Chu Văn An trên đường Thụy Khuê, vào phía sau sân trường tìm bãi cỏ nhìn qua Hồ Tây để nhớ đến nụ hôn đầu tiên Kiên bỡ ngỡ đặt lên môi Phương trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Bãi cỏ xanh mướt ngập đầu lưu giữ tình yêu đầu tiên của Kiên không còn nữa. Nếu giờ đây, Phương cũng đã đi nước ngoài và lấy chồng ngoại quốc, nụ hôn của Kiên trao cho Phương, chính tôi nhận và giữ hộ...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 87270)
Larsson lìa đời trước khi đứa con tinh thần, bộ tiểu thuyết thuộc loại trinh thám, Millennium Trilogy, gồm ba cuốn, mà ông đã viết vào mỗi tối như một trò giải trí cho thần kinh bớt căng thẳng, ra đời sáu tháng sau khi ông ký giao kèo với một nhà xuất bản Thụy Điển, Norstedts Förlag, nhà xuất bản thứ hai Larsson liên lạc và ký giao kèo, sau khi gửi cho một nhà xuất bản thứ nhất tới hai lần mà gói sách không hề được mở ra.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92744)
Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng Tư 1975, chúng tôi có cái hân hạnh được Công đoàn bảo hiểm Pháp ( Fédération Française des Sociétés d’Assurance ), qua thỏa ước với Bộ Tài chánh CHXHCNVN, gởi về nước cùng với một số nhà giáo Pháp giảng dạy bộ môn Bảo hiểm còn mới này trong trường Đại học Tài chính và Kế toán Hà nội - nay trường đã lột xác trở thành Học viện Tài chính.
14 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 109389)
Về đi thôi nhật ký ngày chân đất Gốc đa già bà kể lá bùa yêu Em ôm giấc thị thành nửa mùa cổ tích Hỏi gió trời sao giấu lá bùa yêu 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 84467)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83508)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75836)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80639)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.