- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

THƠ LƯU MÊLAN

30 Tháng Tám 201511:39 CH(Xem: 31668)
LuuMeLan 1
Lưu Mêlan





LTS: Lần đầu cộng tác cùng Hợp Lưu, Lưu Mêlan là bút hiệu của Nguyễn Thị Nguyệt, sinh năm 1989.

hiện sống tại Sài Gòn. Chúng tôi hân hạnh giới thiệu những thi phẩm của Lưu Mêlan cùng quí văn hữu và đọc giả Tạp chí Hợp Lưu.

TCHL

 

 


CHỮ

 

Đây là những hàng chữ

Mà chúng tôi đã học

Thế nhưng, tất nhiên, chúng khác.

 

 

Cùng là một ngôn ngữ

Nếu ghép ra từ muốn nói, chúng tôi không thể thốt ra

Nên chúng tôi chối từ,

để  im lặng.

 

 

chúng tôi sống trong những thứ chúng tôi không thể sống

để sống chúng tôi như không sống

chúng tôi chuyển động, chúng tôi hoạt động

và chúng tôi chết.

 

nên chữ  cũng

trở nên trong suốt

 như không tồn tại, chúng là hiện vật hơn là thứ để nói

bất động hơn là được dùng, chúng chỉ, rốt cuộc, trang trí

trên mắt chúng tôi, trong họng chúng tôi, trong  

những hàng giầy cũ cách xa khỏi người chết-

những người không còn ai nhớ ra.

 

Chữ, nơi đây, chỉ là cái kinh hoàng

Giữa những cái kinh hoàng

Dồn đống trong một vùng đất trống.

 

 

LŨ TRẺ

 

Chúng tôi nhặt được vài viên đạn dưới chân cầu

Chúng tôi cũng nhặt được hàng đống thuốc

Nổ

Chúng tôi còn thấy rất nhiều thứ khác, người ta đã để quên

Tại vùng này, tận trong hũng đất, sau những toa tàu hoả

Hư hỏng, đã bỏ không

 

Chúng tôi thường đi học

Băng qua đường tàu này

Rất gần, đôi khi chúng tôi thấy nó chạy tới

Như một con hổ

tiếng hú bốc khói trên đầu

 

Lũ chúng tôi cũng có thể lượm được vài thứ khác

Những thứ không thể biết rõ được

Nhưng chúng tôi thấy bình thường, chúng bị vứt bỏ

Dưới cái nắng chan chát, bạc màu và xỉn lại

 

Chúng tôi chơi với vùng đất bỏ hoang, rộng

Băng qua nó những khi vội vã

Và chơi khi chẳng có ai muốn nhìn thấy chúng tôi

Chúng tôi đôi lúc có thể chết vì những quả bom, mìn, lựu đạn

Chúng tôi chẳng quan tâm đến điều đó

Đường thì nhỏ, cắt ngang những bông hoa, đất sỏi của đồi núi, chòi canh và dê, cừu, bò

Từ xa trông nhỏ xíu.

 

Chúng tôi có thể coi đó là những chúng tôi khác

Chưa bao giờ tồn tại, chúng xa lắc chẳng gợi gì với chúng tôi về hiện tại

Con người hay tình đồng loại

Những gì xảy ra, được bưng kín như một vết thương

Không tiếng nói, chỉ có những hình ảnh

Càng ngày càng nhỏ lại.

 

Và chúng tôi càng ngày càng lớn lên

Có một khoảng trống đủ để chúng tôi biến mất với tất cả những điều đó.

 

 

 

Những Thứ Đã Chết

 

1.

Đây

Là lúc

Mọi thứ rã ra

 

Đây là lúc mọi thứ

Trôi dạt

 

Để cưu mang, để khai sinh

Để hủy hoại

Để phóng để chạy để tan tác

 

Đây là lúc mọi thánh đường

Không kẻ nguyện cầu

Không kẻ chối từ

Không kẻ khai tội

 

Đây là lúc để đi ra

từ giã

Mọi thứ giữa mọi thứ

Mọi thứ giết mọi thứ và tôi

Khoảng sáu tuổi

Đứng bên khung cửa sổ

Chơ vơ, không thể khép

Khóc và la hét và cô đơn và sợ hãi

Chính trong mảnh đất mình.

 

2.

Chúng tôi chỉ mới vài tuổi

Chúng tôi chơi những trò chơi không tiếng cười

Chúng tôi chạy trốn

Chúng tôi hỏi tội, và biết cảm giác có tội, chúng tôi học

tránh ánh mắt đe dọa và giận dữ

Từ gia đình.

 

Chúng tôi

có nhiều thời gian để

Vất vưởng ngoài đường, ngoài đồng, ngoài căn nhà

Chúng tôi ít khi đói

Chúng tôi không hay no

Chúng tôi cảm thấy quá rộng để  hạnh phúc

 

Không có tiếng ru nào, những căn nhà nhỏ

Núp lẫn vào, che giấu nhau, những con hẻm khuất, những bóng cây râm

Những tiếng khóc và hét của con nít

Nhỏ hơn chúng tôi…

 

Những con mèo và chó

Những trái chín rụng, những trái còn xanh, xác của những loài bò sát nhỏ…

Những kẻ nhìn chúng tôi, cười hay lơ chúng tôi

Chúng tôi có tất cả

Đủ xa để không còn cần tình thương, yêu.

 

Chúng tôi đã chết.

Ngay khi chúng tôi biết cái chết

Chúng tôi cười

 

Có lẽ người lớn đã học cách chịu đựng như vậy

quanh chúng tôi

Và rồi họ có thể nói gì với chúng tôi

Để có thể xoa dịu điều đó, trong họ và trong chúng tôi?

 

Lưu Mêlan

 

Ý kiến bạn đọc
04 Tháng Hai 202310:47 SA
Khách
Rat tran trong nhung bai tho doc dao voi ngon ngu sac ben tao bao nhung bai tho tach roi vuot troi trong rung tho hien dai.Rat mong co dip trao doi voi tac gia de tim hieu them ve dong tho doc dao nay.Xin cam on.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 89920)
...Chết tuy biết vì sao mình chết, do đâu mình chết mà không làm gì được. Chết một lần dưới làn đạn Tây dương. Chết thêm một lần về tinh thần bởi lòng trung bị khủng hoảng, bị phản bội, ấy là thời đại của những con người như Hoàng Diệu, ấy là những anh hùng cứu nước như Hoàng Diệu...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75738)
Hợp Lưu 112 Xuân Tân Mão 2011 , đến với bạn đọc và văn hữu khắp nơi trong tiết trời lạnh hơn mọi năm. Một năm đã trôi qua với bao biến động trên thế giới ngày nay, và cũng là một năm có nhiều đổi thay nơi quê nhà. Dù đang ở nơi nào, tâm hồn người Việt vẫn luôn hướng về; mong mỏi đổi mới, cải thiện cho một xã hội tốt đẹp hơn. Mùa Xuân là biểu hiệu của khởi đầu và hy vọng, cũng là dịp cho chúng ta suy gẫm và nhìn lại một năm đã qua.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 103833)
...Tôi đến Trường Chu Văn An trên đường Thụy Khuê, vào phía sau sân trường tìm bãi cỏ nhìn qua Hồ Tây để nhớ đến nụ hôn đầu tiên Kiên bỡ ngỡ đặt lên môi Phương trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Bãi cỏ xanh mướt ngập đầu lưu giữ tình yêu đầu tiên của Kiên không còn nữa. Nếu giờ đây, Phương cũng đã đi nước ngoài và lấy chồng ngoại quốc, nụ hôn của Kiên trao cho Phương, chính tôi nhận và giữ hộ...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 87241)
Larsson lìa đời trước khi đứa con tinh thần, bộ tiểu thuyết thuộc loại trinh thám, Millennium Trilogy, gồm ba cuốn, mà ông đã viết vào mỗi tối như một trò giải trí cho thần kinh bớt căng thẳng, ra đời sáu tháng sau khi ông ký giao kèo với một nhà xuất bản Thụy Điển, Norstedts Förlag, nhà xuất bản thứ hai Larsson liên lạc và ký giao kèo, sau khi gửi cho một nhà xuất bản thứ nhất tới hai lần mà gói sách không hề được mở ra.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92723)
Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng Tư 1975, chúng tôi có cái hân hạnh được Công đoàn bảo hiểm Pháp ( Fédération Française des Sociétés d’Assurance ), qua thỏa ước với Bộ Tài chánh CHXHCNVN, gởi về nước cùng với một số nhà giáo Pháp giảng dạy bộ môn Bảo hiểm còn mới này trong trường Đại học Tài chính và Kế toán Hà nội - nay trường đã lột xác trở thành Học viện Tài chính.
14 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 109350)
Về đi thôi nhật ký ngày chân đất Gốc đa già bà kể lá bùa yêu Em ôm giấc thị thành nửa mùa cổ tích Hỏi gió trời sao giấu lá bùa yêu 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 84425)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83464)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75784)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80567)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.