- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

THƠ ĐÔNG DUY

07 Tháng Bảy 20153:38 SA(Xem: 31507)

 

DONG DUY
Đông Duy - ảnh ĐH 2015



LTS: Đông Duy là bút hiệu của Hoàng Kiếm Nam. Ông là nhà thơ, nhà văn, bên những sáng tác văn chương , ông còn có nhiều tác phẩm về hội họa và ca khúc, đồng thời cũng là nhà báo kỳ cựu trong làng báo Việt Nam ở hải ngoại. Chúng tôi xin hân hạnh gởi đến quí bạn đọc và văn hữu những thi phẩm của thi sĩ Đông Duy Hoàng Kiếm Nam.

 

Bão Rớt Cuối Mùa

 

Tôi sống những ngày hồn ủ trên mây

Không yêu thương chẳng giận hờn thù nghịch

Bão rớt cuối mùa trời bỗng chuyển đìu hiu

Em đã rất xa mà nghe chừng gần lắm

Vàng thời gian hiu hắt những chờ mong

Chờ mong gì một thời mây vương núi

Núi đợi mây hay mây gọi núi về

 

Tôi sống những ngày gối mộng thanh xuân

Xưa, phấn hương nồng nàn trong nỗi nhớ

Một nơi nào, môt lần đó, một phút giây

Thơm nắng gió em và ta cùng mộng ảo

Vẫy tay chào,  ta vào cuộc lênh đênh

Níu bước thời gian xanh, ôi mầu xanh kỳ diệu

Che vết người mù trong cõi nhân gian

 

Tôi sống những ngày hồ như mình vẫn sống

Ngó quanh co nhìn lại vẫn thường thôi,

Tháng nối ngày, năm tiếp lối thiên thu

Cứ thế nhé êm êm vào tịch mịch

Có gì đâu, tiếc gì đâu, sao lẩn khuất không rời

Có hôm nay, 

đời vẫn trôi êm như một liều thuốc lú

Có ngày mai,

 bàng hoàng

Chiều tắt nắng rồi sao ?

 

 

 

KHÓI ĐÃ VÀO MẮT EM

 

Có điều gì đang vỡ vụn trong anh

Niềm tuyệt vọng quẩn quanh nơi nào đó

Sao nói được thành lời

Những cát khô rã rời chờ gió cuốn

Đã hoá thân trong một cuộc phân ly

Và gió nóng

Làm khô  làn môi vào những buổi trưa hè

 

Gây phút đó anh đã nói với em những điều gì nhỉ

Có thể những lời yêu

Hay những lời tâm sự

Hay những chuyện bâng quơ

Câu truyện hoang đường nào ngày xưa anh còn nhớ

Buổi trưa nào ấu thơ mộng ảo trùng trùng

Cánh chim kia chở anh vào vạn dậm trời xanh biền biệt

Những góc biển chân trời

Những vương quốc của một loài chim tự do

Nơi bãi lầy lau sậy hoang vu miền nhiệt đới

Hay cao vút đỉnh  cột buồm những con tầu ma

Trôi dạt hàng ngàn triệu năm

khắp các miền đại dương cồn sóng

 

Mùa hè buồn quá,

Buồn quá

Có thể anh sẽ nói với em,

Tầm thường thôi,

Như mọi người

Rồi cũng tầm thường thôi,

Một góc đời nào đó,

Hẩm hiu mái nhỏ che trời,

Em sẽ đợi...

Lặng lẽ tháng ngày như viên sỏi nhẵn

Anh sẽ cúi đầu

Mòn áo cơm,

Mỏi mòn như củi mục

Mỏi mòn lệ nến khóc tàn phai

Vẫn phải thắp lên

Huy hoàng hay bé mon

Rọi vào hư không những mộng hiền

Làm anh run sợ

Có điều gì đang vỡ vụn trong anh

Thả buông trôi cùng  cơn bão cát

Để cuồng phong đưa đẩy tới chân trời

Dù chẳng phải cánh chim trời huyễn hoặc ấu thơ

Chở mộng ảo trùng trùng

Như anh kể

Có trời xanh, biển lớn,

những bến bờ xa lạ cuối chân mây

 

Còn lại này Em, lời cuối

Thôi đành, hạt cát nhỏ phiêu liêu

 

Cho anh xin,

Muộn phiền đã chở lời lên khóe mắt

Cách chia nào không bóp nghẹn con tim

 

 

TRONG TRÍ NHỚ ANH


Có trong trí nhớ anh

Một lúc nào đó em khóc dịu dàng

Bão rớt thổi về từ một núi rừng mịt mù ký ức

Yêu em

Lòng anh hoang sơ như ngọn cỏ

Như là sầu đông khô vàng trên những lối lặng câm

Bâng khuâng một ngày đời như mây nổi

Như đã ngàn năm

Thêm một ngày

Một ngày yêu em mê mải

 

Có trong trí nhớ anh

Một chỗ nào đó ta đã qua

Một chỗ trong cuộc đời nho nhỏ

Của chúng ta,

Của chúng ta trong nhau

Trong trái tim anh

Trong trái tim em

Một ngày còn âm thầm gõ nhịp

Nhịp  âm thầm

Ngày tháng vẫn đong đưa

 

Có trong trí nhớ anh

Thân thể em một đời ta mục rữa

Đời có gì buồn,

Đời có gì vui

Đời có em có mưa thả mù trên thung lũng xám

Khói thuốc tần ngần bỗng đứng lặng câm.

Như có em

Lệ nhỏ âm thầm

Ngày mai

Ôi ngày mai nào có ra gì

Thôi quên đi em

 

Có trong trí nhớ anh

Său đêm là một ngày.

Ngày hồi sinh gối chăn ấm êm như cổ tích

Nắng đã muộn màng sao vẫn tưởng chiêm bao

Trong tóc rối em một đời ta vô định hướng

Đời rất tình cờ thôi cũng thả trôi sông

Rồi sẽ một ngày ta xuôi về nơi nào đó

Yêu em

Yêu em

Như rong rêu xa dấu mặt trời

 

(Đà lạt 1963-Cali 1975)

ĐÔNG DUY

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 89855)
...Chết tuy biết vì sao mình chết, do đâu mình chết mà không làm gì được. Chết một lần dưới làn đạn Tây dương. Chết thêm một lần về tinh thần bởi lòng trung bị khủng hoảng, bị phản bội, ấy là thời đại của những con người như Hoàng Diệu, ấy là những anh hùng cứu nước như Hoàng Diệu...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75481)
Hợp Lưu 112 Xuân Tân Mão 2011 , đến với bạn đọc và văn hữu khắp nơi trong tiết trời lạnh hơn mọi năm. Một năm đã trôi qua với bao biến động trên thế giới ngày nay, và cũng là một năm có nhiều đổi thay nơi quê nhà. Dù đang ở nơi nào, tâm hồn người Việt vẫn luôn hướng về; mong mỏi đổi mới, cải thiện cho một xã hội tốt đẹp hơn. Mùa Xuân là biểu hiệu của khởi đầu và hy vọng, cũng là dịp cho chúng ta suy gẫm và nhìn lại một năm đã qua.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 103558)
...Tôi đến Trường Chu Văn An trên đường Thụy Khuê, vào phía sau sân trường tìm bãi cỏ nhìn qua Hồ Tây để nhớ đến nụ hôn đầu tiên Kiên bỡ ngỡ đặt lên môi Phương trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Bãi cỏ xanh mướt ngập đầu lưu giữ tình yêu đầu tiên của Kiên không còn nữa. Nếu giờ đây, Phương cũng đã đi nước ngoài và lấy chồng ngoại quốc, nụ hôn của Kiên trao cho Phương, chính tôi nhận và giữ hộ...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 86976)
Larsson lìa đời trước khi đứa con tinh thần, bộ tiểu thuyết thuộc loại trinh thám, Millennium Trilogy, gồm ba cuốn, mà ông đã viết vào mỗi tối như một trò giải trí cho thần kinh bớt căng thẳng, ra đời sáu tháng sau khi ông ký giao kèo với một nhà xuất bản Thụy Điển, Norstedts Förlag, nhà xuất bản thứ hai Larsson liên lạc và ký giao kèo, sau khi gửi cho một nhà xuất bản thứ nhất tới hai lần mà gói sách không hề được mở ra.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92480)
Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng Tư 1975, chúng tôi có cái hân hạnh được Công đoàn bảo hiểm Pháp ( Fédération Française des Sociétés d’Assurance ), qua thỏa ước với Bộ Tài chánh CHXHCNVN, gởi về nước cùng với một số nhà giáo Pháp giảng dạy bộ môn Bảo hiểm còn mới này trong trường Đại học Tài chính và Kế toán Hà nội - nay trường đã lột xác trở thành Học viện Tài chính.
14 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 109127)
Về đi thôi nhật ký ngày chân đất Gốc đa già bà kể lá bùa yêu Em ôm giấc thị thành nửa mùa cổ tích Hỏi gió trời sao giấu lá bùa yêu 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 84200)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83249)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75578)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80538)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.