- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

BÀI THƠ TÌNH BUỔI SÁNG ĐẾN LÝ THUYẾT CỦA NỖI BUỒN

27 Tháng Năm 20152:59 SA(Xem: 38016)

noell oszvald
Ảnh Noell Osvald

 

Bài thơ tình buổi sáng

Sáng nay anh không thức dậy sớm
cùng em bước trên con đường đầy sương trắng
em khoác cái mũ lên cao
giữ đôi tai trong im lặng
và anh có nghe tiếng rêu chảy
trong cái hồ nhỏ bên bờ thành?
em hứa với anh sẽ viết một bài thơ tình
sớm nay sương mãi trắng mái đầu
chưa đánh thức giấc ngủ muộn

Sớm nay em nghe những ngôi nhà đang im lìm
trong những cánh cửa sổ khép lại
hôm nay ngày nghỉ lễ
lũ trẻ con được chạm vào giấc mơ thật nhẹ
có cô công chúa với váy xòe
em thấy có cụ già lom khom đang nhặt nhạnh những chiếc ve
dưới ánh đèn đường vàng vọt

Sớm nay em lại đi một mình ngang phố
chị bán hàng đã mời thưa
mồ hôi bết vào mái tóc dày
em thấy mình vẫn còn thảnh thơi đến vậy
có nỗi buồn úp sau vành nón
em thương
cuộc sống chẳng có gì viên mãn hơn
những lời thầm thì nho nhỏ
hương vị thơm mùi sả lá
nghi ngút khói bay nhạt một góc đời

Bài thơ tình em để dành cho anh nhưng đến muộn
hãy nghĩ điều đợi chờ như những viên đá li ti
tan trong ly cafe lạnh mát
trên chiếc lưỡi ngọt ngào
trong buổi sáng nào đó
nhé anh

Một trang cổ tích

Ta tháp tình yêu vàng óng
cõng ghềnh cổ tích chơi trăng
ai ngờ uống dấu rêu ngàn
hoài thai nỗi buồn mọc nhánh

Tôi bỏ mặc người canh sương
vào mỗi sáng sớm bên đường
tôi lật từng chương cổ tích
một màu nhang khói bay đi

Nóc phố sáng nay im lặng
quên câu chuyện cũ pha trò
chiếc ghế ai ngồi co ro
mốc meo hai bàn tay gió

Đường xa đường xa để ngỏ
cỏ hoa xanh dấu bàn tay
nhớ nụ cười vừa thức dậy
khỏa vào hư hao một ngày

Phố chưa bật đèn hôm ấy
để mây mặc màu áo trăng
một hôm nỗi buồn trĩu nặng
qua hiên từng giọt miên man

Cổ tích từ đó từng trang
lấm nhòe cơn mưa hôm trước
tìm người từng trang giấy ướt
mênh mông ở tận thiên đường

Từ bữa ấy

gương mặt cởi truồng son phấn
màu xanh cũng biếng buồn
lén bỏ bài thơ đi rong chơi
ở một thế giới
không cần ánh mặt trời
và những tầng mây vẫn còn thấp lắm
và em cứ thế
bồng bềnh trôi

Từ bữa ấy em đã quên những chỗ mình ngồi
quên những đám mây đã kéo lên ngàn và từng cơn mưa cứu rỗi
những tiếng yêu đầu ngập ngừng tập nói
sẽ dừng lại vu vơ
em sẽ nhớ những bài thơ ngây ngô
viết vội bên bờ sóng vỗ
từ bữa ấy
em đợi
gió sẽ cuốn đi

từ bữa ấy em muốn điểm trang lại những bước chân đi
trộm thơm mây tóc
em sẽ thật chậm rãi những con đường

Từ bữa ấy em thấy mình thật lắm yêu thương
như cô bé con không còn biết khóc nhè ương bướng
xin em đừng gắng gượng
nếu nắng mưa bất chợt đổi màu
từ bữa ấy em sẽ biết màu trời xanh dâu
và con đường có bất chợt dài thật dài
xin em đừng dừng lại
nắng sẽ phai
và em cứ thế
bồng bềnh trôi

sẽ có lời reo ngàn mắt cỏ
sẽ có giọt sương ngòn ngọt xanh xanh

Thời gian không lợp đều mái phố


Qua lăng kính của sự hào phóng
sự nuối tiếc thường đến muộn
thời gian hóa trị nỗi buồn
trên mái đầu không còn tóc
những sợi tóc bay lạc
quên nói về điều chia tay

Trong chiếc ba lô chiều này
dăm cái bánh với chai nước đầy
em không chuẩn bị bộ quần áo để thay
qua khu phố lầy lội
mùa hè chỉ có nắng gầy
và nỗi nhớ đọng trầm tích
phía xa xa
nơi đôi bàn tay của em không bao giờ được chạm đến
và cứ thế em đi

Những biến chứng của thời gian
không lợp đều mái phố
xanh và xám bạc
những câu chuyện cổ có mùi vị coca
và em đang ngồi ở đó
mông lung về thuở mười ba

Thời gian không lợp đều mái phố
em nhìn
ngón ngắn bàn tay
chẳng chạm được vào ô cửa nhỏ

 


Những bài thơ được đạo diễn

từng phụ âm nguyên âm và thanh điệu cảm xúc
trơn tru
chúng không được phép ẩn dụ
nỗi đau diệp lục đang viền mặt lá
mặt trời đã bỏ quên ngày
trong những đôi mắt ngủ sâu
như chúng không được phép ẩn dụ
cả chứng mù màu
đằng sau những miếng kính dày trong suốt

Những bài thơ được đạo diễn
như nụ cười trên chiếc mũi
những em bé đang cầm miếng cao su
tẩm hương vị thịt bò
thơm phức
nỗi đau không được ẩn dụ
ngấu nghiến
chiếc áo màu thanh xuân
Và bài thơ
hòa tan trong mớ âm thanh
trong cái loa buổi sáng
Và bóng đêm, ai biết
chúng đang phi tang những thước phim thừa
diễn vụng

Sáng nay, mọi cảm xúc không hề được ẩn dụ
như bài thơ
chúng để trần truồng dưới màu sương lạnh
những ngày cuối tháng tư
lạnh buốt
như những con số vừa hiện lên trong chiếc điện thoại: " Ngày... gần 40 độ C"

 

 

Mảnh ghi chép số 54

Gió,
phía sau mảnh ghi chép số 54
những khuôn chữ ép mặt mình vào từng đường link nhỏ
rẽ chiều
nơi ấy đã không có ngọn gió nào
để bay

tôi thấy những bước chân trẻ đánh vòng
những đường mòn
đang chạy
tôi thấy nụ cười của lũ bù nhìn đánh rơi trên trên cát
chẳng ai nhặt lên

tôi thấy bóng ai vừa mở cửa ngôi đền
có tiếng đàn bật ra nho nhỏ
có đám cưới chuột tưng bừng giấy gió
có tiếng xẩm rơi đỏ mắt trầu
tiếng gõ đầu
phách xác xơ
những con cò lơ ngơ
trong nỗi nhớ
những câu ca dao chết lưu trong bào thai của cánh đồng
tôi sợ những con đường vòng
sợ những bàn tay mở gió
và đặt nụ cười lên những con bù nhìn

delete, gió
lặng im
nghe
những bước chân trẻ đánh vòng
xa xa


Nơi con đường tôi đến

Đừng làm phiền
khi dấu lặng vừa kết thúc
chẳng có gì hơn ngoài nỗi đớn đau của sự tĩnh lặng
rơi từ đốt ngón tay

Đừng làm phiền
nỗi sợ hãi đang ở trên cao
nơi ngọn núi xa xăm và đông tuyết
tôi sợ rơi ánh mặt trời
và ánh mắt bị xé nát
nỗi đau sẽ chảy ra ngoài đại dương

Xin đừng làm phiền
sự vị tha của gió
có điều gì vừa lướt nhanh qua mắt cỏ
hanh hao
lời bài hát nào vừa vút cao
tiếng loài chim nào vừa cất lên từ lòng gió
đá cũng hoài thai
nỗi buồn không có hình hài
bỏ ngỏ

Xin đừng chạm vào vết thương
nơi con đường
tôi đến


Lý thuyết của nỗi buồn


Chỉ là mớ lý thuyết của nỗi buồn
mô phỏng
từng đợt sóng dài
kéo những chiếc diều từ đáy đại dương
trong veo. lềnh bềnh. dập dềnh.
thân sứa
những chùm chân của chữ
nghĩa dính nhau
trong tiếng lật nhào của gió

Những người đàn ông đang kéo
sự hỗn loạn dối trá
những người đàn bà đang đếm
những hạt mưa
của một thế giới buồn
thời gian không nằm trong máy tính
để lập trình những gương mặt
và bản năng đôi mắt

Những chiếc diều vẫn bay lên
từ đại dương
mớ lý thuyết của nỗi buồn
ngộp nước


NGUYỄN HOÀNG ANH THƯ

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
26 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 97344)
H ơi cay của rượu lan dần cổ họng chạy dọc thân thể. Cảm giác đầu lưỡi ngọt dư vị rượu trắng không pha như hôn nhân không giá thú, biết nguy hiểm nhưng vẫn dấn thân. Lâu dần cô ghiền cái hơi của gã, không thể sống thiếu gã. Cô thấy mình bị một sợi dây vô hình thít chặt ngang cổ, càng quẫy đạp càng riết chặt hơn, cô kêu cứu nhưng chẳng ai nghe được bởi gã đã ăn mất lưỡi của cô sau từng muỗng hôn ngọt ngào, gằn xé lẫn khinh bỉ.
26 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 92848)
T rịnh Y Thư sinh năm 1952, tại Hà Nội. Viết văn, làm thơ, dịch. Tác phẩm đã xuất bản: Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being), tiểu thuyết của nhà văn Pháp gốc Tiệp Milan Kundera, tạp chí Văn Học xuất bản, 2002; Căn phòng riêng (A Room of One’s Own), lí luận văn học của nhà văn nữ Virginia Woolf, Tri Thức xuất bản, 2009. Người đàn bà khác, tập truyện, Thế Giới xuất bản, 2010. Hiện định cư tại bang California, Hoa Kì.
26 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 91519)
T răng non mới chớm lưỡi liềm, nhưng sao tôi nhức nhối lạ thường. Nhức từ bên trong, và cảm thấy cô đơn như chưa từng. Nấm mộ nhà thơ nhô lên, dưới ba thước đất là một nắm xương khô. Nhưng trên mặt đất này, thơ ông vẫn toả sáng những dòng đối chọi lại bệnh tật tàn khốc của ông bằng những niềm hạnh phúc hầu như không tưởng. Nhìn ra xa, biển tít tắp lấp lánh như dát gương. Dăm cánh buồm trắng những con thuyền câu về muộn nhấp nhô ẩn hiện.
26 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 99869)
Á Nam Trần Tuấn Khải sinh năm 1894 tại làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, mất năm 1983 tại Sài Gòn, thọ đúng 90 tuổi ta. Cuộc đời ông trải qua hầu hết những giai đoạn thăng trầm nhất, chứng kiến hầu hết những biến cố quan trọng nhất của lịch sử cận hiện đại Việt Nam. Ông cũng chứng kiến hầu hết những cuộc đổi thay của văn học hiện đại Việt Nam, từ sự ra đi của thơ Cũ đến sự xuất hiện của Phong trào thơ Mới, của Tự lực văn đoàn, đến các trường phái, trào lưu, khuynh hướng, chủ thuyết văn học cả tư bản và cộng sản gần suốt thế kỷ XX.
25 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 106619)
... T ôi cảm thấy mình như Từ Thức trở về, không còn ai biết mình, nhớ ra mình là ai, đôi khi lại còn bị đối xử một cách bất thường. Những lưu luyến với quê hương càng ngày càng như những rễ cây khô cố bám víu vào nền đất phù sa hai bên bờ sông, chưa biết ngày nào bị nước cuốn trôi đi...
21 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 91887)
“Đến bây giờ tôi còn thương mấy con ếch báo thức; chúng là những con ếch đầu đàn, ngủ đông trong hang, nấc lên tiếng gọi đầu tiên đánh thức đàn ếch chui ra khỏi hang mà vào cuộc sinh nở với mùa xuân. Nhưng các nhà "tiên tri ếch, kẻ đánh thức đồng loại" dậy đón xuân kia đã bằng tiếng ồm ộp của mình báo rằng: lạy ông tôi ở bụi này. Mấy tay bắt ếch chuyên nghiệp nghe tiếng kêu thức tỉnh đồng loại của dũng tướng ếch cách mạng kia bèn chộp chú liền, cho vào giỏ về thịt; vào giỏ rồi mà chú vẫn uôm uôm! Vẫn báo cho đồng loại dậy mau mà chạy đi, mà vọt xuống ao kịp trốn ... . " (Trần Mạnh Hảo)
21 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 106029)
LTS : Nguyễn Thi Quyên, hiện là Nghiên cứu sinh ngành Văn học so sánh tại Đại học Strasbourg, Cộng Hòa Pháp. Câu chuyện về Trương Chi đã được tác giả viết trong một đêm mưa như gửi tiếng lòng về với quê hương xa xôi.Tạp chí Hợp Lưu trân trọng giới thiệu “Trương Chi” đến cùng quí độc giả và văn hữu khắp nơi. Tạp Chí Hợp Lưu
21 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 105616)
P l ease help us to secure the immediate and unconditional release of Viet Khang
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 127587)
l à ngày em không còn nghĩ về anh nữa sự tự tin của anh không đủ giữ gìn những kí ức về nhau
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 41505)
Lời toà soạn: Mùa thu năm rồi, dưới sự bảo trợ của chương trình học bổng Fulbright của Hoa Kỳ,Giáo sư Tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP-HCM/Sàigòn, đã có mặt tại Hoa Kỳ để thu thập chất liệu cho dự án nghiên cứu về các nhà văn nữ Việt tại hải ngoại. Trong dịp này, chị đã có dịp tiếp xúc với nhà văn/nhà báo Trùng Dương, cũng là một thành viên Fulbright của niên khoá 1990-91, và là một trong năm nhà văn nữ nổi tiếng nhất của nền văn học Miền Nam 1954-1975. Sau đây là cuộc nói chuyện giữa hai thế hệ văn học từ hai môi trường khác biệt, mà nhà văn Trùng Dương đã, với sự đồng ý của người phỏng vấn, dành cho tạp chí Hợp Lưu ...