- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Trương Chi

21 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 105896)

truongchi

“Ai đi qua bến giang đầu tha thiết, nghe sông than mối tình Trương Chi…” (Trương Chi- Văn Cao)


LTS: Nguyễn Thi Quyên, hiện là Nghiên cứu sinh ngành Văn học so sánh tại Đại học Strasbourg, Cộng Hòa Pháp. Câu chuyện về Trương Chi đã được tác giả viết trong một đêm mưa như gửi tiếng lòng về với quê hương xa xôi.Tạp chí Hợp Lưu trân trọng giới thiệu “Trương Chi” đến cùng quí độc giả và văn hữu khắp nơi.
Tạp Chí Hợp Lưu

Hoàng hôn rắc một lớp bụi màu tím sẫm trên mặt sông. Gió đã chuyển hướng từ nam sang đông, mang theo hơi nước mát lạnh. Trăng non đầu tháng đã lên tự bao giờ, mỏng như một chiếc lá lúa đang thì con gái, xanh và trong suốt. Sông Cải mùa này nước trong hơn nhưng cạn hơn. Anh thò tay vốc một vốc nước, rồi để dòng nước chảy qua kẽ tay, rơi xuống bàn chân cô.
- Anh này... Làm ướt hết cả người ta rồi- Cô kêu lên, giọng hờn dỗi
- Đâu có. Anh chỉ rửa chân cho em thôi...
- Chỉ khéo chống chế... Cô mỉm cười- Ta về thôi anh. Trẻ chăn trâu về hết rồi. Mẹ mắng em chết. Bảo là ra sông giặt áo, vậy mà ngồi mãi từ nãy đến giờ...
- Thôi nào, một chút nữa thôi. Trời chưa tối mà...
Cô nhìn anh, rồi nhìn mặt sông. Chẳng biết từ bao giờ, người ta gọi dòng sông bằng cái tên “ Sông Cải”. Cũng chẳng biết từ bao giờ, người làng trồng cải bên sông. Khi cải trổ hoa, hai bờ sông rực vàng, lũ bướm từ đâu kéo về. Chúng vờn hoa, rồi vờn hoa. Hết mùa hoa, chúng lại kéo nhau đi, để lại những nàng hoa ủ rũ thai nghén những hạt cải non.
Nếu anh không nói thì cô chẳng biết dòng sông này còn mang một cái tên rất đẹp, rất thơ nữa: Vân Giang- dòng sông mây. Đối với cô, cái tên đó thật xa lạ, xa lạ như những câu chuyện mà anh vẫn kể những đêm trăng sáng.
Trăng đã lên cao. Ánh sáng non nớt nhưng cũng đủ lấp lánh cả một khúc sông. Cô chạm khẽ vào tay anh, thì thào
- Ta về thôi anh. Em sợ
- Ừ...ta về thôi...
*
Trăng đã lên. Trăng rằm tròn vành vạnh. Trương Chi đẩy thuyền lên mạn trên. Gió tây thổi lồng lộng. Xa xa, xóm làng yên ắng. Chỉ có tiếng chó cắn ma chốc chốc theo gió đưa tới. Dải núi Vu trầm mặc vắt ngang bầu trời trong như hổ phách. Ra đến giữa dòng, Trương Chi cất tiếng hát, như hàng đêm vẫn vậy.
Hò ơ
Trăng trăng cao
Ta lướt mái chèo
Gió reo
Sóng reo
Bốn bề quạnh hiu
Ta lướt mái chèo
Sương ngấn lệ gieo
Đêm cô liêu
Hò ơ...
Thương ai mắt hoen sầu
Tiếng hát tan ra trên mặt sông loang loáng ánh trăng, lẫn với tiếng mái chèo khua nước nhẹ nhàng. Đêm nay cũng như mọi đêm, Trương Chi quăng lưới và hát. Nhưng đêm nay không như mọi đêm, lòng chàng nặng trĩu. Chàng nhìn ánh trăng tan dưới mái chèo của mình, rồi ngước nhìn mặt trăng xanh buồn bã, tự nhủ: “ Trăng sao giống nàng, kiều diễm và buồn bã. Ước gì ta có thể làm tan biến nỗi buồn ấy...”. Chàng hướng mắt lên phía tây, xa xa là lâu đài của nàng, ánh đèn vẫn sáng kiêu sa. Đêm nay nàng có nhìn trăng không? Nàng có nghe ta hát không. Này là khúc tương tư...

*
- Có đúng là Trương Chi đã hát khúc hát đó không? – Nàng đã hỏi anh câu hỏi ấy không biết bao nhiêu lần. Và lần nào cũng vậy, anh không trả lời, chỉ ngước đôi mắt buồn bã nhìn nàng. Đôi mắt thật đẹp và thật buồn. Thỉnh thoảng chúng ánh lên vẻ lo âu thoảng thốt. Nàng cảm thấy như vậy. Nàng không nhớ từ bao giờ nàng bắt đầu biết đọc những câu trả lời trong mắt anh.
Nàng biết anh từ lúc nàng mới sinh ra. Có lẽ vậy. Hai nhà chung một lối cổng. Anh mất mẹ, sống với cha và mẹ kế. “ Mấy đời bánh đúc có xương...”, mẹ nàng vẫn nói vậy mỗi khi nghe dì ghẻ anh la mắng con riêng của chồng. Anh lớn lên, lầm lũi như một cái bóng. Có người bảo anh lì lợm, vì chẳng bao giờ anh trò chuyện với ai. Không bạn bè, cũng đúng thôi, vì anh đâu có thời gian để chạy chơi với chúng, không thả diều, không bắn chim. Hết tiết học ở trường, hôm thì xách giỏ ra đồng, hôm thì canh lũ vịt. Mười lăm tuổi mà anh chẳng cao hơn được cánh cổng gỗ mở sang nhà nàng. Hồi bé, nàng và lũ bạn lít nhít hay leo lên cây ổi, dòm qua vườn nhà anh, canh chừng nếu không có người thì lẻn qua hái trộm dâu chín. Thế nhưng lần nào cũng thấy anh ngồi đọc sách dưới tán dâu. Mấy đứa vừa sợ vừa ghét ánh mắt lạnh lùng của anh, thường thè lưỡi ra chọc giận rồi tụt khỏi cây ổi bỏ chạy, cười vang cả xóm.
Ấy thế mà không biết từ khi nào, anh trở thành một phần trong một ngày của nàng. Nàng đi học, anh chạy đến tận trường bằng chiếc xe đạp Nhật cũ mua lại của ông chú bằng tiền anh bán cua suốt mấy năm. Sáng đi học, chiều giúp cha và dì việc đồng áng, tối anh lọ mọ xách đèn ra ruộng tìm bắt cua. Sáng ra, mang cua bán cho người đi chợ trước khi tới trường, ngày nào anh cũng có mấy nghìn đồng. Dì anh định lấy luôn số tiền đó, nhưng sợ chồng, nên mặc kệ anh. Thế là năm nàng học lớp mười và anh học lớp mười hai, anh đã có xe đạp. Và nàng, dù đã được mẹ mua cho một chiếc mới toanh vẫn thích ngồi xe của anh. Bạn bè trêu, nàng không đỏ mặt. Thì sao chứ, anh nghèo thật, không đẹp trai nhưng chăm chỉ và học giỏi. Và nàng biết rằng với anh, nàng có nhiều ý nghĩa hơn cả một người bạn gái. Nàng là người duy nhất anh kể truyền thuyết Trương Chi và là người duy nhất anh hát cho nghe khúc ca ai oán của chàng ngư phủ.
*
Trăng đã biến mất. Gió đổi hướng đông, đẩy thuyền ngược lên mạn trên. Trương Chi cố ghì mái chèo. Mây ùn ùn kéo đặc cả bầu trời đêm. Mặt sông trong chốc lát tối sầm lại. Sóng cuộn lên, đánh tới tấp vào mạn thuyền. “ Đêm mai, ngươi phải ghé vào bờ, chỗ bãi cải đang trổ hoa kia. Nhớ là phải che mặt lại”. Người thị nữ ấy đã vội vã nói và vội vã đi, không thèm nhìn mặt chàng. Trương Chi biết là nàng phái người ấy đến. Hẳn là nàng muốn nghe chàng hát. Nhưng chẳng phải là nàng không muốn gặp chàng hay sao. Nàng đã quay đi kinh hãi khi nhìn thấy chàng hôm đó cơ mà. Và chẳng phải người ta bảo rằng chàng phải ra đi, không được quay lại khúc sông này nữa. Và chẳng phải lúc này chàng đang phải ra đi, để nàng vừa lòng, cũng như chàng đã phải đến trước đây, để thoả ý nàng sao?
Không. Trương Chi không muốn đến. Chàng không muốn con tim nhỏ bé của mình phải quặn lên khi phải hát trước mặt nàng. Và hẳn là, nàng sẽ đưa tay che mắt. Ai hiểu được chàng không? Gió thổi mạnh quá. Thuyền chao trên sóng. Trương Chi mệt mỏi ngồi bệt xuống sàn thuyền. Một tiếng sấm rền vang, liền đó, ánh chớp xé ngang mặt sông. Mưa ào ào trút xuống. Người ngư phủ ngửa mặt lên, hứng lấy những hạt mưa như những nhát roi quất. Chàng cất tiếng hát...
*
- Trăng thật là đẹp, anh nhỉ- Nàng phá tan im lặng. Ngày mai anh đi rồi, nàng không muốn anh đi với một tâm trạng nặng nề
- Trăng lúc nào cũng đẹp- Anh nói- Và buồn, và cô đơn...
- Thôi nào anh... Sang đó nhớ giữ sức khoẻ. Nhớ em thì cũng thỉnh thoảng viết thư thôi, đừng gọi điện thoại kẻo tốn tiền. Nghe nói gọi điện từ nước ngoài về tốn tiền lắm...
Anh im lặng. Lại hai năm nữa trôi qua. Nàng đã mười tám tuổi, đẹp như bông sen trong ao làng. Còn anh, anh sắp đi xa, đến một nơi mà anh chưa đến, để làm việc trong một nhà máy hay một công ty nào đó, để kiếm tiền. Cha và dì anh đã phải đi vay mấy chục triệu đồng chạy cho anh đi xuất khẩu lao động là mong anh kiếm được nhiều tiền. Anh cũng mong vậy. Kiếm được tiền, anh có thể học lên đại học. Và hơn nữa, anh được gần nàng. Năm nay nàng cũng sẽ vào đại học.
- Anh hát khúc Trương Chi đi
- Em muốn nghe ư?- Anh ngạc nhiên. Có lần nàng đã bảo anh đừng hát, vì khúc đó “ buồn làm sao” ấy
- Vâng, anh hát đi...
Anh ngắt một ngọn cỏ đưa lên môi. Mùi cỏ hăng hắc. Anh nhìn nàng rồi nhìn ánh trăng lấp lánh trên mặt sông. Anh cất tiếng hát

Hò ơ...
Đêm đêm trôi
Trăng chơi vơi
Gió than khúc ngậm ngùi
Sầu giăng tơ
Mộng giăng tơ
Cành theo gió phất phơ
Hò ơ...
Ai buông tóc bơ phờ
*
Sau một đêm mưa như trút, ngôi làng tỉnh giấc dưới ánh mặt trời chói gắt. Mọi người kháo nhau về điềm dữ sắp xảy ra. Chứ còn gì nữa, trời đất bất thường đến thế. Ở cái xứ sở này, có bao giờ mưa mùa đông lại có sấm rền chớp loé. Lại nữa, mặt trời chói gắt thế kia, chắc chắn có tai hoạ.
Quả nhiên là tai hoạ. Ông Cả Tuần chủ bãi cải ven sông đi thăm đồng về với khuôn mặt tái nhợt. ông chạy đi tìm tuần đinh, báo rằng có xác người chết trên ruộng cải nhà ông. Tuần đinh và dân làng kéo nhau ra bãi. Người ta nhận thấy đó là xác anh ngư phủ vẫn kéo lưới ở khúc sông chảy qua làng mấy tuần trăng nay. Thỉnh thoảng, các cô gái trong làng vẫn kháo nhau rằng anh ta hát rất hay. Con người xấu xí nằm chết trên ruộng cải. Mọi người kháo ầm lên. Người thì bảo anh ta bị giết. Người thì bảo anh ta chết đói và chết rét. Nhưng trên ruộng cải bị quần nát một góc, dấu vết rõ ràng hằn trên đó là của hai người. Chắc hẳn họ đã vật lộn rất lâu, vì những cây cải ngồng bị dập nát be bét, lẫn vào bùn nhão. Điều lạ là, trong mấy dấu chân để lại, người ta nhận thấy rõ vết hài phụ nữ.

*
Anh đi được ba năm thì nàng lấy chồng. Nàng có vào đại học và yêu một vài chàng trai thị thành. Họ dạy nàng cách hôn. Người cuối cùng là con trai một cán bộ cao cấp trong chính quyền thành phố. Ngày cưới nàng vào mùa hoa cải. Sắc vàng như lụa trải suốt bãi sông dài. Lũ bướm lại dập dờn kéo đến cùng vũ điệu lả lướt của chúng.
*
Trong câu chuyện anh kể cho nàng về chàng ngư phủ, hai tháng sau cái chết của Trương Chi, Mỵ Nương cũng lấy chồng. Và nàng sinh con bảy tháng sau đó, một đứa trẻ xấu xí không giống mẹ chút nào.

Nguyễn Thị Quyên

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 30683)
H đã rời bỏ nơi chốn chúng tôi cùng rong chơi “ nơi đó sặc mùi lừa bịp – H nói những cái thớt và những đứa liếm thớt H không chịu được mùi không phải của người”
16 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 30885)
T hấp thoáng tháng tư rưng rưng mùa hạ cũ Mùa xưa qua đây Tuổi trẻ hồng như màu mực đỏ Đêm đốt rừng gió xiết cổ tình ca
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 31331)
« C hiến tranh là sự tiếp nối chính trị bằng những phương tiện khác» . Câu văn trứ danh này của Clausewitz, có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe qua. Nó xác lập sự phụ thuộc của quân sự vào chính trị. Từ khi có những tập hợp người gọi là thành quốc hay quốc gia, người ta không làm chiến tranh đơn thuần nhằm chém giết lẫn nhau, mà để giành lấy quyền định đoạt số phận của một cộng đồng. Và kẻ tham chiến có thể thua hàng trăm trận đánh, miễn là thắng trận cuối cùng, nếu sau đó nó mang lại quyền quyết định về việc tổ chức chính quyền trên một lãnh thổ.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 31994)
T ình trạng dịch thuật hiện nay ở Việt Nam đang ở mức cần phải báo động. Radio RFI đã dành nhiều chương trình cho những buổi nói chuyện với nhiều dịch giả trong và ngoài nước về vấn đề này. Sau Hoàng Hưng, Phạm Xuân Nguyên là những nhận định có phần nghiêm khắc của dịch giả Trần Thiện-Đạo đã sống ở Paris trên nửa thế kỷ. Trước 30-04-1975, Trần Thiện-Đạo cộng tác với các báoVăn, Tân Văn, Bách Khoa, Nghệ thuật... ở Sàigòn và hiện nay vẫn thường xuyên gửi bài in trên các sách báo văn học trong-ngoài nước. Ý kiến của Trần Thiện-Đạo sẽ như một liều thuốc đắng, may ra giã được một số tật cố hữu trong địa hạt dịch thuật của Việt Nam.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34248)
Trước 30-04-1975 Thế Phong là một nhà văn quân đội. Ưu điểm của Thủy và T6 nằm ở giọng văn chuyển tải suy nghĩ nhân vật liên tục không chấm dứt, qua đó, người đọc bắt gặp thủ đô Sàigòn về đêm. Một thủ đô phù phiếm dù mặt trận kề cận. Một Sàigòn vừa trải qua Đảo Chánh đã chờ đợi Chỉnh Lý. Thế Phong ghi lại tâm trạng bấp bênh của xã hội miền Nam mà các chi tiết vũ trường, thao thức nhân vật có thể chuyển hoán cho hôm nay, bây giờ. Bối cảnh truyện xảy ra năm 1964, năm khởi đầu của nền đệ nhị Cộng Hoà.(TCHL)
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 35077)
C ánh tay tôi rơi dài bên tôi, tựa tiếng thở sâu từ ngàn năm trước. Tôi thở mơn man, dịu dàng trên đồi cao cùng người tình xa xứ đáng thương. Tôi thở lười biếng, hão huyền bên người đàn ông dậy nực phù sa sông Hồng. Tôi thở không thành tiếng trên triền cát vàng tựa chiếu chỉ vua ban, nghẹn ngào nuốt sâm quý hắc mùi đền đài Trung Hoa. Tôi thở dồn dập kích động, rên hú thanh quản từng hơi trong căn phòng Tim. Nước sông Hồng mùa đông cạn ráo. Dầu cho Hồ Tây tràn nước ra đường, sương mù dăng trắng thành phố. Không khí ẩm ướt đọng thành vũng trong những ngôi nhà phố cổ. Không ai, không gì biết đến sự tồn tại của tôi. Đồng loã cùng thân thể mát thơm, uốn dẻo và trái tim hỗn mang của tôi là màu đêm tối.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34282)
Tôi xô nó ra nói thôi mà, làm ở trong chùa tội chết. Nhưng thằng nhỏ giờ phút này còn có biết gì nữa, công an nó còn chưa sợ, sợ gì tội. Tôi ngó lên bức hình ông Quan Công trên bàn thờ, tôi nói coi chừng cái ông cầm cây Thanh Long đao kìa. Danh bước đến thổi tắt phụt ngọn đèn dầu. Trong phòng bỗng tối mực. Danh đã cởi áo tự hồi nào. Nó kéo tôi nằm ngữa ra nền xi-măng. Bóng tối như đêm làm cho dạn dĩ hơn, không còn mặc cảm tội lỗi nữa, tôi ôm Danh với tất cả ham mê. Thằng nhỏ tuổi trẻ mà tài cao. Nó làm tình như giông, như bão.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33203)
...Trong hoàn cảnh hiện nay, người làm văn học, trong hay ngoài nước, đặc biệt là giới trẻ, đang có cơ hội và khả năng tạo một sinh khí cho xã hội VN, giúp giảm thiểu những phá sản tinh thần đang xẩy ra. Muốn vậy, rất cần có sự đam mê, học hỏi, và lòng can đảm nói thật, viết thật. Không có nền văn học có giá trị nào được xây dựng trên sự giả dối và tránh né.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 41182)
T ừ ngày 7/3/1975, khi Văn Tiến Dũng bắt đầu cô lập Ban Mê Thuột, tới ngày 30/4/1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, vừa chẵn 55 ngày. Thật khó ngờ chỉ trong vòng 55 ngày và 55 đêm mà đạo quân hơn một triệu người–có hơn phần tư thế kỷ kinh nghiệm tác chiến, với những vũ khí khá hiện đại như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa [VNCH]– bị sụp đổ hoàn toàn [...] Những hình ảnh điên loạn mà ống kính các phóng viên quốc tế thu nhận được chẳng khác cảnh vỡ đê trước con nước lũ, hay sự sụp đổ của một tòa lâu đài dựng trên bãi cát, khi nước triều dâng lên.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33372)
c ắm que nhang tưởng niệm cho ngày ra đi thấy niềm cô đơn một lần nữa trở lại đêm soi gương sâu hút ánh mắt thoai thoải đường cong li tâm ấm ức