- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Hạc Thành Hoa những ám ảnh trăng vàng nguyệt

17 Tháng Bảy 201112:00 SA(Xem: 96146)

 


 

hacthanhhoa-content

Thi sĩ Hạc Thành Hoa


Đến nay, Hạc Thành Hoa đã có 4 tập thơ được công chúng đón nhận: 2 trước năm 75 (Trong Nỗi Buồn Vàng, Một Mình Như Cánh Lá), và 2 sau 75 (Khói Tóc, Phía Sau Một Vầng Trăng).

Ở 2 tập trước do Văn và Giao Điểm ấn hành là những bài thơ viết về tình yêu, về thân phận con người luôn cô đơn trong nhịp sống ồn ào phố phường và bụi phấn, về những thấp thỏm trước cuộc chiến đang hồi lan rộng cùng nỗi ám ảnh về cây súng, quân trường, ba lô, giày trận…

Thời kỳ sau là sự thay ngôi đổi chủ đột ngột, phũ phàng, cứ ngỡ ông sẽ có những vần thơ véo von chim hót một bầy trước cung đình tráng lệ như một số (không nhiều) nhà thơ khác, nên tôi cố công đọc 2 tập sau, cố công “bới lông tìm vết” vì đầu óc luôn nghĩ đã là nhà giáo ưu tú được phong tặng, hẳn nhiên giọng điệu thơ sẽ có khác đi.

Đọc mãi, tìm mãi cũng chỉ có những rung động tơi tả trước sau, luôn tự nhìn chính mặt mình với cô đơn bất khả, luôn chất chứa những ưu uất trong lòng. Những cô đơn và ưu uất kia thánh thiện và thuần khiết như những giọt sương long lanh buổi sớm mai được dẫn dắt bởi nguyệt, trăng cùng với màu vàng buồn thê thiết.

Có thể nói, cả 4 tập thơ đã ấn hành của ông luôn thấp thoáng Trăng là Nguyệt là màu vàng rụng xuống hồn ông. Có cả hàng chục tựa bài thơ và hàng trăm câu thơ dát bóng trăng lạnh xa gần chiếu dọi như là những nỗi niềm trải dài, che kín cả một màu chia ly ở đôi bờ khắc khoải, nhớ nhung. Chừng như với ông, Trăng là nỗi ám ảnh một kiếp lưu đày, là nguyệt vàng nhuốm màu thời gian trước và sau của những mất mát, tìm kiếm, khao khát… vây phủ cả đời cuộc ông vậy. Trăng với ông là mối tình câm lạnh. Nguyệt vàng trăng là tâm cảm triền miên những con sóng vỗ vào bờ đá “tình người”:

Tình người bờ đá trăm năm

Sóng tình tôi cuộn trên dòng nước trôi.(Trên bờ đá tình người)

Bờ đá không còn là ẩn ngữ với ông, trong thơ ca, mà chính là hiện hữu phận người. Đó cũng là nỗi cô đơn của thời gian không thể đo đếm bằng những con số hữu cơ và phải chăng “tình” trong uẩn khúc nguyệt vàng trăng cứ mãi mê trườn cuộn trên phận người “trăm năm cô đơn” kia?

Nếu như những ngày lang bạt ở sông nước miền Tây, không gặp ông, không ăn đậu ngủ nhờ ở căn gác trọ của ông thì tôi không thể tin nổi ông là một con người đa cảm, đa đoan đến vậy. Mà căn gác ấy, căn nhà bên con rạch Cái Sơn, Sa Đéc đâu chỉ riêng mình tôi, còn có cả Vũ Hữu Định, Nguyễn Tôn Nhan, Hà Nghiêu Bích, Yên Bằng… kẻ trước người sau đến với ông như chút ấm áp của những que củi nhỏ buổi tàn đông, như hơi thở nguội sau những đêm dài đông cứng những cốc rượu tràn. Căn phòng nhỏ nhìn ra con rạch êm đềm, đầy bóng râm mát, đầy tiếng tiếng ve trên những tàn cây cổ thụ và tiếng đàn và thơ. Thơ như khí trời bám khắp bốn bức vách loang lổ, đổ xuống nền gạch tàu, treo lủng lẳng trên xà ngang, ám vào mái ngói âm dương rêu phong. Thơ quấn quít bên kệ sách, ngập ngừng chao lượn trên sàn gạch màu lá bàng bay lơ lửng trong không. Tiếng mái chèo quẫy nhẹ như chiếc vây bơi con cá chẽm bên dưới dòng Cái Sơn. Xa hơn chút, tiếng máy đuôi tôm khua động mặt sóng sông Tiền. Và nữa, tiếng đạn pháo ngoài lung xa, vũng sáng nhơm nhớp hỏa châu che khuất ánh trăng… đã đẩy ông vào góc tường tróc lở từng mảng vôi. Ông rưng rưng sợi dây đàn căng. Ông ngậm ngùi lưng tròng nhìn qua dòng sông đang với tay níu choàng con rạch nhỏ đặc sệt một dòng trăng vàng thấu đáy (nhưng cái đám bằng hữu “nhìn thấy cơm sôi chợt nhớ nhà” kẻ trước người sau, lần lượt quay về xó cũ bỏ ông lại một mình với cảnh “Gã giang hồ vẫn gác trọ cô đơn…Thân ta đôi lúc cơn gió lạnh/Thổi tạt mùa đông xuống đáy mồ”!).

Khoảng thời gian ấy, không bao giờ những vò rượu Lai Vung, Lấp Vò nhấn lút được những câu thơ từ chốn sâu thẳm tâm hồn ông tha thướt bước ra như một thiếu nữ khuê các. Nàng đẹp đến não nùng. Nàng Lục Bát của ông khoác áo màu hoàng yến tắm trăng. Mảnh xiêm y rơi nhẹ. Trăng ướt đẫm nàng, ve vuốt nàng rồi trần truồng phơi ra những thiên hà ngập ngừng bên cạnh con nước sông Tiền lên xuống.

Bên kia con rạch là Trăng vàng và bên này là nhà thơ, để trăng chụp úp lên thơ, quấn quít nhau hơi thở dồn dập của đôi tình nhân.

Một đời con suối lang thang

Mây thu cánh mộng trong khoang thuyền tình (Vàng đôi cánh biếc)

Màu trăng lạnh huyễn hoặc kia chừng như không bao giờ rời xa ông, chỉ vì nó thật gần, cách nhau bằng tiếng thở của con sóng nhỏ lăn tăn, cách nhau chỉ mấy bước chân ngập ngừng, nửa quen nửa lạ. Lúc trăng xa, ông ngỡ như gần. Lúc trăng ẩn nấp đâu đó trong khoảng lặng của thời gian thì ông tưởng như Trăng đã Vàng Nguyệt rời xa ông mãi mãi, khiến ông sợ hãi cái thời khắc kinh khủng kia, thời khắc của mộng mị và những ảo giác mệt nhoài trong cơn mê lú, để, khi tỉnh lại, nỗi trống vắng càng lồ lộ như cảnh “người đàn bà ngoại tình” của Alberrt Camus trên terrasse quán trọ vùng sa mạc cận Alger, một mình, hoàn toàn cô độc. Nếu như người đàn bà của Camus cô đơn giữa bầu trời đầy sao trong đêm sâu thăm thẳm, thì ông, Hạc Thành Hoa bị người tình là Trăng vàng Nguyệt kia quay gót, bỏ lại cái hình hài thực giữa muôn trùng giun dế về đêm.

Hồn từ giã biệt cơn mê

Trăng đi bỏ lại bốn bề quạnh hiu

Đèn lu lòng ngại không khêu

Sợ trăng lên cánh rừng treo áo vàng (Trong cánh rừng thiên thu)  

Trăng vàng Nguyệt cũng giống như cái ảo giác mộng mị chìm lún trong cõi chiêm bao khiến ông cứ rơi mãi rơi hoài vào chiếc hố đen ngòm chuyển hóa từ cái màu vàng đậm đặc và huyễn hoặc kia.

Mù mưa trắng xóa chiêm bao

Mây qua biển rộng non cao tiếp trời

Áo em vàng nửa hồn tôi

Ngồi ru nắng mỏng trên đồi cây khô (Mù khuya tiếng vạc lưng trời)

Câu thơ sang trọng, đẹp khiến tôi cứ ngỡ như bên tai vang lên điệu slow ngập ngừng, buồn man mác cùng mảng màu vàng muôn thuở trong những bức tranh của Van Gogh.

Không rõ Trăng đã nói gì, hẹn hò gì với ông mà ánh mắt và cõi lòng luôn ném về chốn xa xăm đến nỗi ông bị mất thăng bằng, từ hẹn hò mộng tưởng chuyển thành nỗi tuyệt vọng như thể Trăng đã phụ tình ông.

Tìm em sau giấc mơ tàn

Mùa thu nếp áo nguyệt vàng trong mây

Đêm đêm gió chở trăng đầy

Rơi theo nước mắt từng bầy sao khuya (Trong tà huy bay)

Ông chưa hề phụ mảnh tình thoi thóp Trăng vàng Nguyệt, mà chỉ có trăng vàng nguyệt lạnh hờ hững với ông, từ cõi nào xa tít ông phải mãi kiếm tìm, như thể kẻ bị sa lầy. Đã một lần ông sa lầy khi chọn nghề dạy học ( nghề giáo là một nghề sa lầy - Camus), ngày hai buổi rút hết kiến thức phơi ra trên bảng đen; rồi lại phải làm kiếp “con tằm nhả tơ” khiến sự sa lầy nơi ông càng quay quắt, khốn đốn hơn.

Nay còn lại trong tay nùi giẻ rách

Đời mòn theo từng viên phấn ngu ngơ

Hồn ta rộng mà chỗ ngồi quá chật

Suốt một đời không vẽ nổi ước mơ…

…Chiều hôm nay không dưng buồn quá đỗi

Ta hôn mê đầu gục trước bảng đen

Khu trường rộng một bãi lầy quá lớn

Ta thấy mình ngày một lún sâu thêm (Bậc thang thứ nhất)

Hay:

Mười năm bụi phấn hòa nước mắt

Đem đắp thành pho tượng thạch cao (Pho tượng thạch cao)

Có thể tạm mượn tựa những “Điêu tàn, Mê hồn ca…” để làm nền lý giải cho một giai đoạn sáng tác trước 75 của Hạc Thành Hoa, giai đoạn của những u uẩn vì thất vọng, vì hoài nghi, vì những âu lo hoảng loạn màu hỏa châu che lấp nguyệt vàng, nên trong hồn ông, hình như chỉ còn khoảng không hẹp của sự thoi thóp, dãy dụa: “Trăng úa vàng hấp hối giữa cô đơn” hay “Từng đêm trăng múa trên đầu sóng/Trăng cười khiêu vũ với yêu ma/Men nhạt không mờ đôi mắt héoNghe trời tê dại nhớ thương em”.

Những yêu ma, men nhạt, mắt héo…có thể không còn là những mảnh vỡ lăn tăn nhạt nhòa mà là những mảnh vỡ quặn đau, tê điếng thẩm nhập tận cùng nơi sâu thẳm tôm hồn ông: Vì bên kia sông Trăng vẫn vàng Nguyệt còn bên này sông thì Nguyệt bắt đầu che khuất ánh trăng vàng! Một bên vẫn rực rỡ tung tăng một khoảng không vô tình đến trống rỗng, còn một bên thì vỡ tung những khối u lạnh câm. Kiêu sa hay hờ hững dáng cao sang?

Nàng Trăng luôn ám hồn ông là ai để đến nỗi thành những ám ảnh nặng nề trong suốt quãng dài thời dài rộng đến mênh mông, đến vô cùng tận? Trăng là Nguyệt là Trăng viễn mộng chăng? 

Ông yêu tha thiết cái màu vàng trăng là nguyệt kia đến độ gần như phát cuồng

Có con rắn lục nằm trong lá

Rít một hơi dài lạnh buốt xuân…

Trăng bỏ người đi đêm nguyệt tận

Ly rượu hề môi chạm tảng băng…

Ai mang áo lụa vàng năm ấy

Mỗi cánh mai giờ một nỗi đau (Đêm nguyệt tận)

Ông viết bài này năm 1990 bằng những hồi tưởng về một nỗi đau, mất mát đã ám suốt cuộc đời như lớp bồ hóng đen bóng trên gác bếp. Ông như một người chiến binh ngoài mặt trận, đang ngã ngựa. Bóng trăng đã xô ông té nhào đến thê thảm:

Ta chẳng còn là mây mùa thu trước

Em không còn là trăng của thu xưa (Lại một mùa mưa sắp đến)

Không, rõ ràng ông không là một Hàn Mặc Tử thứ hai để say trăng, để điên vì trăng. Bởi màu trăng của Hàn Mặc Tử là màu trăng huyết, nhuốm đỏ cả khung trời, trước mắt nhà thơ. Đó là những cơn đau đớn vật vã đến cuồng loạn. Còn trăng của Hạc Thành Hoa là màu trăng của “Áo lụa Hà Đông, là trăng hoàng yến, là cánh mai vàng… Nó có đó, thật gần trong cái với tay nhưng lại vô cùng xa cách để cuối cùng, màu Nguyệt vàng Trăng ấy biến những khoảng cách nồng nàn kia trở thành những cơn mộng huyễn. Ông đuổi bắt, tìm kiếm hình bóng lay lắt có không kia đến mỏi mòn…

Ông đi tìm bóng, mỏi mòn tìm bống đến hụt hơi.

Ông say mộng chỉ vì say nhan sắc màu trăng, theo ngày tháng đã tẩm liệm hồn mình.

Ông say trăng trong cõi mộng mị ta bà suốt những năm tháng dài.

Cuối cùng ông say thực:

Thức ăn và rượu đều ra hết

Còn lại trong ta một nỗi buồn

Nỗi buồn lớn quá xô ta ngã

Nằm dài như xác chết chưa chôn (Cơn say tuyệt vời)

 

Sau năm 75, cũng như bao nhiêu nhà văn khác, Hạc Thành Hoa bị rơi vào vùng hẫng hụt của những nghị quyết, bo bo, sắn mì… Cả bối cảnh xã hội và hoàn cảnh cá nhân đã đặt ông vào tình cảnh trì trệ, đầu óc khô cứng. Dẫu vậy ông vẫn cầm bút và tiếp tục viết, để cuối cùng cũng cho ra mắt độc giả 2 tập Phía Sau Một Vầng Trăng và Khói Tóc. Song thú thật, khi đọc tôi có cảm giác như thơ ông đã sắp ngừng hơi thở những cơn mộng mị đẹp, đối mặt với thực tế có phần khắc nghiệt hơn nhiều, bởi hoàn cảnh xã hội đã chọn chúng ta chứ chúng ta không có quyền chọn lựa gì cả. Cái quyền thiêng liêng bất khả kia giống như ngọn đèn cạn dầu, leo lét.

Thơ ông như mất đi một phần của nàng thơ mà ông đắm đuối một thời, chỉ còn một chút tròng trành trước mắt, chia sẻ với bạn bè đồng cảnh; chút đìu hiu về một nỗi nhớ xa gần hay ghi lại những cảm xúc trong những chuyến đi xa: Sơn Trà, Hội An… rồi lộn vòng về cố xứ đồng bằng sông nước mênh mông. Thỉnh thoảng ông vẫn nhớ đến Trăng, nhưng Trăng lúc này, với ông bắt đầu sứt sẹo, mất đi một nửa Trăng vàng Nguyệt.

Ở đây trăng chỉ còn một nửa

Nửa kia ở mãi tận phương nào

Tỉnh dậy chỉ còn trăng một nửa

Nửa còn lại bỗng hóa phù vân (Trăng một nửa)

Rồi ông phải tự kêu với chính mình, trong cơn mưa, ở một ngóc ngách nào đó trên đường phố Sài Gòn rất quen mà hóa lạ!

Em biết không

Ở đâu anh cũng là người khách lạ

Ở đâu cũng không phải quê hương

Em ơi! Làm sao em biết được

Một gã ưu du

Cứ đi cứ đi như kim đồng hồ chạy ngược (Nói với mình trong khi trú mưa)

Ở một đoạn khác:

Chỉ còn con cù lần biết lấy tay che mặt

Những con két đến đây từ một nơi rất xa trên trái đất

Đang gửi hồn về xứ sở quê hương (Buổi trưa ở thảo cầm viên)

Đó là tâm trạng chung ta thường thấy trên các trang viết sau này của nhiều nhà văn chân thật

Và cuối cùng đành bất lực, phải thú nhận:

Suốt đời đuổi bắt một vầng trăng

Chưa có được một lời ngợi ca người vợ trẻ

(…)

Bên anh có một nàng tiên dịu dàng là thế

Mà cứ miệt mài đuổi bắt một vầng trăng (Tạ lỗi cùng người vợ trẻ)

Như vậy là chấm dứt một chặng đường mộng mị bên cạnh những tân toan mà trước đây có lần ông thốt lên đầy đau đớn.

Mai tôi chết nhưng vầng trăng còn đó

Vẫn dịu dàng trông xuống nấm mồ tôi (Vẫn còn vầng trăng…).

Đúng là cái hồn cái phách trong thơ ông vẫn vậy, ở hai tập sau, nhưng chất sâu lắng của nó thì tan ra thành lớp khói mỏng, không phải màn sương đêm dát trăng vàng nguyệt như trước. Có lẽ cũng tại “vì ai gây dựng cho nên nỗi này”. Phải vậy không?

 

 (Tháng 4/2011)

 

Hạc Thành Hoa tên thật: Nguyễn Đường Thai Sinh quán tại Xuân Phổ, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giáo sư Việt văn Trung học Sa Đéc, Lương Văn Can Quận 8, Thị xã Cao Lãnh. Ông làm thơ từ năm 1961, đã đăng nhiều thơ trên các báo, tạp chí văn học miền Nam trước năm 1975 .

Tác phẩm đã xuất bản:
+ Trong nỗi buồn vàng (Nguyễn Đình Vượng, tạp chí Văn Sài Gòn – XB – 1971).
+ Một mình như cánh lá (Giao điểm Sài Gòn xuất bản – 1973), tái bản (Thư ấn quán Hoa Kỳ xuất bản) 2006.

+ Phía sau một vầng trăng (NXB Thanh niên – Hà Nội – 1995).
+ Khói tóc (NXB Lao động – Hà Nội – 1996).

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Chín 201212:00 SA(Xem: 107715)
C húng ta không đoạn cuối  Chúng ta không bắt đầu  Trăng Atlanta lung linh Đi cho đến bình minh ...
23 Tháng Chín 201212:00 SA(Xem: 90167)
N hững nhà nghiên cứu mới đây cho biết rằng dùng sữa chua yogurt có thể làm hạ áp huyết nhưng dùng sản phẩm gạo có thể nguy hiểm vì nồng độ thạch tín cao.
22 Tháng Chín 201212:00 SA(Xem: 87488)
C ách đây hơn 20 năm, Bảo Ninh mô tả chiến tranh như một bộ máy nghiền nát tất cả, trừ tình yêu. Nguyễn Bình Phương tiến thêm một bậc: chiến tranh nghiền nát cả tình yêu chỉ để lại tội ác, không cho con người một hy vọng nào...
22 Tháng Chín 201212:00 SA(Xem: 108094)
T ôi đến thăm anh một chiều mưa Huế. Nói chính xác là một chiều mưa rằm Huế. Trời xầm xì và mưa lách nhách. Lá cây ướt đầm...
27 Tháng Tám 201212:00 SA(Xem: 105386)
Người Việt chúng ta thì ai cũng biết hột vịt lộn là gì, nhưng đối với giới trẻ và người Tây Phương, thì theo như ông Miguel Trinidad, trưởng tay đầu bếp và là một trong những người chủ tại Maharlika, một nhà hàng Phi Luật Tân ở thành phố New York, mô tả đây là trứng vịt có từ 11 đến 14 ngày từ khi được ấp trứng và là một món đặc sản tại Phi Luật Tân.
22 Tháng Bảy 201212:00 SA(Xem: 106143)
L ịch sử Việt Nam có không ít những nhân vật lớn với tầm vóc tạo dựng thời đại mà cuộc đời của họ tự nó đã là những pho tiểu thuyết. Song rất tiếc, cho đến nay tiểu thuyết lịch sử Việt Nam mới chỉ dừng lại ở sự khai thác có tính chất minh hoạ lịch sử về một vài giai đoạn và một số khía cạnh của những nhân cách văn hoá lớn này...
22 Tháng Bảy 201212:00 SA(Xem: 104789)
K hi tôi viết những dòng chữ này, thì ở Nam California gia đình và thân hữu của nhà văn Nguyễn Mộng Giác đang tiến hành những nghi thức cuối, tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Trước đây gần hai năm cũng tại địa điểm này, cũng những thân hữu này, đã tiễn đưa nhà văn Cao Xuân Huy trong chuyến đi chót cùng của đời anh. Nguyễn Mộng Giác là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút đầu tiên và Cao Xuân Huy là chủ nhiệm kiêm chủ bút cuối cùng của tạp chí  Văn Học ...
20 Tháng Bảy 201212:00 SA(Xem: 106615)
N guyễn Mộng Giác sinh năm 1940 tại Bình Định, trong một gia đình gồm 7 anh chị em. Ông là người con thứ hai. Cha ông, một nhà giáo trong thời Pháp thuộc, thưở nhỏ ông cắp sách theo cha đi nhiều nơi vì thời gian đó nhà giáo luôn được thuyên chuyển công tác liên tục. Ông thừa hưởng nếp sống mô phạm từ cha mình.
20 Tháng Bảy 201212:00 SA(Xem: 98510)
Về Mùa biển động... V ới đôi mắt tinh tường, cái nhìn thàng hậu (nhân bản) Nguyễn Mộng Giác đã xây dựng lại cuộc đời của nhiều gia đình, nhiều nhân vật trong thế hệ những người đã sống hoặc lớn lên ở trong Nam, thời kỳ chia đôi đất nước... Là nhân chứng có con mắt bao quát và sâu xa, ông nhìn và viết lại xã hội miền Nam trước 1975, thuật lại biến cố Phật Giáo những năm 60, biến cố Mậu Thân thập niên 70, biến cố 30 tháng tư 1975, thuật lại cuộc di tản, thuật lại cuộc đời tha hương trên đất Mỹ.. .
20 Tháng Bảy 201212:00 SA(Xem: 95836)
Hồn tôi ngây ngây như người nhọc nhằn leo núi, lúc lên tới đỉnh chỉ thấy những khối đá tảng xù xì rêu phong, và nhìn trở xuống là một vực thẳm đầy mây". ( Tha hương , Văn Nghệ xuất bản 1989, trang 1849). Đó là hình ảnh nhà văn Nguyễn Mộng Giác với Mùa biển động.