Thuỵ Khuê 2-1010 / Ảnh LTL
Tiểu Sử
Tên thật: Vũ Thị Tuệ
Sinh: ngày 9/8/ năm Giáp Thân (25/9/1944).
Tại: làng Doanh Châu, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Tiểu học: trường Ngô Sĩ Liên, Hà Nội và Bàn Cờ, Sài Gòn.
Vào Nam: tháng 10/1954.
Học trung học tại trường Văn Lang, Tao Đàn và Gia Long, Sàigòn.
Sang Pháp du học: tháng 9/1962. Học dự bị thi vào Grandes Ecoles.
1964, lập gia đình với Lê Tất Luyện, có ba con.
Tháng 8/1984, về Sài Gòn, Hà Nội. 1/1985, viết bài đầu tiên trên báo Tự Do (Bỉ), ký sự về chuyến đi này.
Đã cộng tác với các báo: Tự Do, Văn Học, Thông Luận, Người Việt, Thế Kỷ 21, Phụ Nữ Diễn Đàn, Diễn Đàn, Hợp Lưu...
Phụ trách chương trình Văn Học Nghệ Thuật của đài RFI (Radio France Internationale) từ tháng 12/1990 đến tháng 3/2009.
Tác phẩm đã in:
Cấu trúc thơ (Văn Nghệ, 1995)
Sóng Từ Trường (Văn Nghệ, 1998)
Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp (Văn Nghệ 2002)
Sóng Từ Trường II (Văn Nghệ, 2002)
Sóng Từ Trường III (Văn Mới, 2005)
LÊ QUỲNH MAI : Xin Chị cho biết nguyên nhân nào đã mang Thụy Khuê đến với đài phát thanh RFI, và trở thành nhà phê bình văn học nổi tiếng tại hải ngoại?
THỤY KHUÊ: Tôi viết tiểu luận từ năm 1986, trên báo Tự Do, phát hành ở Bỉ. Từ tháng 11/1987, bắt đầu gửi bài đăng trên Văn Học (Cali), những bài đầu viết về Thế Giang, Nguyễn Mộng Giác, Võ Đình... còn non nớt lắm. Tháng 4/1988, vẫn trên Văn Học, có bài đầu tiên về Nhân Văn Giai Phẩm. Lúc ấy, chúng tôi giúp nhà xuất bản Văn Nghệ và báo Văn Học phát hành tại Pháp, vì vậy tôi quen với Bạch Thái Quốc, người trông nom hiệu sách Nhà Việt Nam (trực thuộc Hội Việt Kiều ở Paris).
Bạch Thái Quốc là người cung cấp toàn bộ tài liệu về Văn học phản kháng (văn học đổi mới) cho tôi, vì anh hay về nước mua sách: Những tác phẩm đầu tiên của Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... ; những tư liệu về đại hội VI của đảng Cộng sản (tháng 12/1986); về cuộc Hội thảo giữa 100 văn nghệ sĩ và Nguyễn Văn Linh (6 và 7/10/1987); về Đại Hội Nhà Văn lần thứ IV (từ 23 đến 31/10/1989). Tóm lại, những bài vở và tài liệu báo chí, liên quan đến những sự kiện quan trọng này đều do Bạch Thái Quốc đem ra ngoài. Nếu không có anh thì chưa chắc hải ngoại đã biết những gì xẩy ra ở trong nước. Nhờ những tài liệu quý giá này, mà tháng 3/1990, tôi viết loạt bài đầu tiên về Văn học phản kháng in trên Văn Học các số 50, 51 và 52 tháng 4-5- 6/1990.
Giữa năm 1990, đài RFI mở Ban Việt Ngữ. Bạch Thái Quốc làm trưởng ban, nhờ tôi phụ trách 2 chương trình: Trả lời thư thính giả và Văn học nghệ thuật.
Chương trình Trả lời thư thính giả phù hợp với tâm cảm của thính giả trong nước lúc bấy giờ: Bức tường Bá Linh vừa sụp đổ, khát vọng tự do tràn đầy. Thính giả miền Bắc, nhiều người chưa tiếp xúc với dân chủ bao giờ, có những thắc mắc sâu sa và tế nhị về các vấn đề tự do dân chủ. Đó là khởi điểm. Về sau, tất cả mọi vấn đề khác về đất nước nói chung, đều được đề đạt. Lúc đó Email chưa thông dụng. Một bức thư ở trong nước gửi ra tiền tem rất đắt, nhưng khối lượng thính giả viết thư cho đài khá lớn, rất nhiều người ở các vùng quê hẻo lánh, và cả những người trong tù như các anh Như Phong Lê Văn Tiến, Đoàn Viết Hoạt, đều nghe và khi ra hải ngoại các anh cho tôi biết. Đây là chương trình đối thoại trực tiếp giữa thính giả mọi miền trong nước và một người ở ngoài nước. Có những câu hỏi khó, những vấn đề nan giải, nhưng qua đó, thính giả trong và ngoài nước có thể hiểu nhau, thông cảm nhau hơn, nhiều vấn đề nóng bỏng được nói và phân tích trên đài. Tiếc rằng, đến tháng 1/1999, vì muốn đi sâu vào địa hạt phê bình và nghiên cứu, tôi phải bỏ chương trình Trả lời thư thính giả, chỉ giữ lại chương trình Văn học nghệ thuật.
Nhờ chương trình Văn học nghệ thuật hàng tuần, mà tôi có mối liên hệ mật thiết với văn nghệ sĩ và trí thức trong nước. Phỏng vấn và Phê bình hỗ trợ cho nhau: Vì các bài phê bình mà văn nghệ sĩ tin ở mình, do đó, họ dễ dàng nhận đối thoại. Vì có đối thoại, nên sự tìm hiểu tình hình văn nghệ trong nước dễ dàng hơn, việc phê bình được hoàn chỉnh hơn. Nếu chính trị làm cho con người xa nhau, thì văn chương đẩy con người lại gần nhau.
LQM : Thụy Khuê không chỉ viết những bài bình luận văn chương thật sắc bén, những tản mạn về một số địa danh nổi tiếng thế giới như Nice, thực hiện những phỏng vấn rất giá trị về mặt văn chương. Tuy nhiên lại không sáng tác truyện ngắn hoặc tiểu thuyết. Tại sao?
TK: Phải lựa chọn, Quỳnh Mai ạ. Sáng tác và phê bình có những điểm chung và cũng có những điểm riêng.
Điểm chung: Óc sáng tạo. Trí tưởng tượng. Yêu ngôn ngữ. Yêu con người. Có văn.
Điểm riêng: Nhà văn đi từ cuộc đời để sáng tác. Nhà phê bình đi từ tác phẩm để sáng tác.
Nhưng cách sáng tác của họ khác nhau: Nhà văn quan sát cuộc sống, tra vấn nội tâm của mình, của người để sáng tác. Nhà phê bình quan sát tác phẩm của nhà văn, phân chất mỗi chữ, mỗi lời, để tìm ra cái sườn tư tưởng và nghệ thuật của tác giả. Nếu nhà văn hoàn toàn tự do trong sự tưởng tượng của mình về cuộc đời, về con người, thì nhà phê bình phải giới hạn sự tưởng tượng trong chữ nghiã của tác giả mà mình khảo sát, không thể tán, bịa, hoặc gán ghép những điều không có trong văn bản, tức là không thể nói trắng thành đen, cái dở ngụy biện thành cái hay. Nhưng nếu không có óc tưởng tượng, nhà phê bình cũng không đọc được những gì ẩn sau chữ nghiã của tác giả. Nếu không có óc sáng tạo, người phê bình cũng chỉ chép lại những nhận định của người đi trước, mà không nghĩ ra được những ý mới. Chúng ta nên biết: chính tác giả nhiều khi cũng không «hiểu rõ» tác phẩm của mình bằng người phê bình. Những gì tác giả cảm nhận về tác phẩm của mình chỉ đúng với nghĩa của tác giả. Nhưng một tác phẩm giá trị thường có nhiều tầng ý nghĩa. Ở những bài phê bình hay, tác giả có thể «học» thêm được những ý nghiã mới trong tác phẩm mà chỉ có người phê bình giỏi mới phát hiện ra. Khi người ta nói đến sự cộng tác giữa tác giả và người phê bình là trong cái nghiã đó. Và khi người ta nói “tác giả đã chết”, có nghiã là tác giả không còn “thẩm quyền” nhận định về tác phẩm của mình, mà chính văn bản sẽ “nói “ thay tác giả.
Vốn kiến thức của nhà văn và nhà phê bình cũng khác nhau: Nhà văn, cần phải lăn lộn trong đời sống, sống với con người và cái ngôn ngữ mà họ viết. Nhà văn phải được nghe, được nói thường xuyên cái ngôn ngữ mà họ đã chọn, hoặc ít ra là phải đọc những tác phẩm giá trị của các nhà văn khác, cùng hay khác thời, để học và hiểu cách họ viết như thế nào, rồi trên cái nền kiến thức ấy, mới sáng tạo ra cách viết của riêng mình. Sự đọc các tác phẩm ngoại ngữ, chỉ làm giầu cho phần kỹ thuật viết, nhưng không giúp ích gì cho ngôn ngữ nhà văn. Sự «bế tắc» của nhiều nhà văn hải ngoại, phần lớn nằm ở chỗ: không được tiếp xúc hàng ngày với đời sống và ngôn ngữ mà họ viết.
Về phần nhà phê bình, một khi đã tìm ra sườn tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm và tác giả, thì phải lý giải lập luận của mình, tức là phải vận dụng đến những kiến thức về triết học, ngôn ngữ học, và các lý thuyết văn học khác.
Vậy việc đọc của nhà văn và nhà phê bình cũng khác nhau. Do đó, nếu muốn có kết quả tốt, không nên làm hai việc một lúc. Có những nhà văn có khả năng phê bình, có thể viết những bài bình luận ngắn với những ý kiến độc đáo, nhưng thường vẫn chỉ là những bài phê bình tài tử chưa phải là chuyên nghiệp.
LQM : « Sóng Từ Trường » của Thụy Khuê là một trong những tác phẩm giá trị trong văn học Việt Nam đương đại. Chị có thể giới thiệu lại cho độc giả được biết về đứa con tinh thần này không?
TK: Sóng Từ Trường tập hợp và tuyển chọn những bài tiểu luận phê bình của tôi viết từ năm 1991.
Tức là từ những bài có thể in thành sách được. Hiện nay mới ra được ba tập. Rất mong trong thời gian sắp tới, tôi sẽ có thì giờ đọc lại những bài đã viết, còn khá nhiều (chỉ một phần được đánh máy và lưu trữ trên website: thuykhue.free.fr) để in tiếp các cuốn Sóng Từ Trường 4, 5, 6...
LQM : « Gặp Mai Thảo một lần, có thể rất yêu hoặc rất ghét, nhưng nhớ mãi. Nhớ cái thực, cái authenticité Mai Thảo khó thấy ở một cá nhân nào » (HL 100: Mai Thảo (1927-1998). Chị đã nhận xét về tác giả Ta Thấy Hình Ta Giữa Miếu Đền như thế. Một vài kỉ niệm nào đó về Mai Thảo đã gây ấn tượng mạnh cho Chị phải không?
TK:Đối với các nhà văn nổi tiếng lớp trước, tôi luôn luôn có thái độ dè dặt. Mai Thảo sinh thời được bao vây như một triều đình nhỏ, tôi lại càng ngại hơn. Tháng 4/1988, Đại Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại họp ở Washington D.C. Anh Trần Thanh Hiệp, muốn nâng đỡ đàn em, rủ tôi sang «kinh đô ánh sáng» gọi là ra mắt «làng văn hải ngoại». Lần đầu tiên gặp Mai Thảo. Nhưng tôi không chào ông, mà lánh. Anh Hiệp và cả anh Nguyễn Ngọc Bích, đều khuyên: TK ra chào anh Mai Thảo một tý đi. Tôi dạ dạ, rồi vẫn lỉnh. Không chào.
Lần thứ nhì, Mai Thảo sang Paris (mỗi năm ông sang Paris một lần vào mùa thu, ở nhà Trần Thanh Hiệp). Anh Hiệp tổ chức một buổi họp mặt với Mai Thảo ở một quán ăn tại Paris 13. Lần này anh Hiệp nhất định «ép»: TK phải gặp Mai Thảo. Hầu hết văn nghệ sĩ ở Paris đều có mặt. Vì nể anh Hiệp, chúng tôi đến. Lúc tiệc đang vui, một nhà thơ trịnh trọng tặng Mai Thảo một bài thơ chúc mừng ông đến Paris. Mai Thảo cầm, đọc cho mọi người nghe vài câu rồi trả lại tác giả: «Thế này thì thơ cái đếch gì!» Nhà thơ tái mặt. Đó là ấn tượng đầu tiên Mai Thảo để lại trong tôi: Nói những điều mà không ai dám nói.
Sau đó, giữa ông và tôi không còn ngăn cách, tôi gặp ông luôn, đưa ông đi chơi mỗi lần ông sang Pháp, và mỗi lần sang Mỹ, việc trước tiên là chúng tôi đến thăm Mai Thảo.
Lần đầu đến nhà tôi, vừa mở cửa vào, ông mỉm cười hỏi: Nghe nói cô chơi toàn với Việt cộng phải không? Biết ông rất ghét «Việt cộng» vì bi kịch của chính ông và các bạn bị tù đầy, sau 75, tôi chưa biết trả lời thế nào, ông đáp luôn: Chơi với ai thì chơi là tùy ở mình, đừng để ý đến điều tiếng bên ngoài: Ông là người tự do và luôn luôn tôn trọng tự do của người khác.
Trong lúc chương trình Việt ngữ của RFI đang bị một làn sóng tẩy chay nổi lên rất dữ, nào là đài tay sai cho cộng sản, nào là đài cộng sản do Hà Nội chỉ đạo, bản thân tôi cũng bị bôi nhọ nặng nề. Một nhà văn (lớn) đã nhận lời phỏng vấn, nhưng sau ông từ chối. Gặp lúc Mai Thảo sang Paris, tôi mời ông và hỏi: «Anh có ngại gì không?» Ông trả lời: «Tôi tin việc làm của Thụy Khuê là tốt, mặc dù tôi không đồng ý (ông muốn nói đến việc tôi «giao lưu» với các nhà văn «Việt cộng»), vậy ta cứ làm»: Không đồng ý nhưng vẫn giúp, để những quan điểm đối lập với mình có thể hiện diện.
Mai Thảo là một nhà văn lớn. Một nhân cách lớn. Đó là ấn tượng của tôi về Mai Thảo.
LQM : Cũng trong bài viết trên, Chị đã gói trọn văn nghiệp Mai Thảo qua từng chi tiết « ... Người ta ca tụng Mai Thảo nhưng dường như không mấy ai đọc Mai Thảo, may ra vài dòng Sổ Tay, dăm ba câu thơ Ta Thấy Hình Ta Giữa Miếu Đền, mặc dù ông là một người có địa bàn viết rộng nhất trong các nhà văn cùng thời, một bút pháp đa chiều, đầy mãnh lực...» Tuy nhiên Chị lại nhận xét rằng:
« … Những văn hữu già sống với Mai Thảo bằng trung thành tình bạn đã trải. Những người viết trẻ bu lấy Mai Thảo như một niềm tin, một cột vịn. Ai cũng có thể thấy mình thân với Mai Thảo... » Vậy bằng hữu văn nghệ thân sơ đến với ông chỉ vì cái tên đình đám Mai Thảo, mà không là văn chương ông?
TK:Theo tôi, có lẽ họ đến với ông vì phong cách Mai Thảo: Rất thật, nói thẳng, thân mật và quyến rũ trong cách uống rượu và ngâm thơ, và ông nổi tiếng. Còn đọc ông thì không chắc lắm.
Tôi có dịp gần gũi vài người bạn thân của Mai Thảo. Khi phải viết đôi dòng hay phát biểu về Mai Thảo, các cụ thường tới hỏi mượn cuốn này, cuốn kia của Mai Thảo, đôi khi hỏi cả ý kiến nữa. Phần Mai Thảo viết ở trong nước, dường như mọi người chỉ nhớ truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, may ra thêm Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời. Phần ông viết ở hải ngoại, người ta cũng chỉ nhớ dăm ba câu thơ ngạo nghễ trong tập Ta thấy hình ta những miếu đền, và vài dòng Sổ Tay hàng tháng trên báo Văn, viết vội, kể về người này một tý, người kia một tý, nên ai cũng thích, nhất là những người được Mai Thảo nhắc đến tên. Thực ra, đó là lối viết thù tạc, ông viết để trả nợ những người đón tiếp ông. Nhưng văn thù tạc của Mai Thảo cũng vẫn có cái tài hoa của nó. Sau khi ông mất, có nhiều bài viết về ông, nhưng không mấy ai nhắc đến Ngọn hải đăng mù và các tập truyện ông viết ở hải ngoại, về cuộc vượt biên và đời di tản: Trong nền văn học hải ngoại, Mai Thảo vẫn còn ở địa vị hàng đầu.
LQM : So sánh với một Mai Thảo của vũ trường của rượu của những đêm thâu suốt sáng, một nhà văn không có nhiều độc giả, là một Võ Phiến với nếp sống chừng mực nề nếp, và cũng là một nhà văn không ăn khách trong nước trước 1975 (Hợp Lưu 103). Nhưng cả hai đều được xem như đầu tàu văn chương của bộ lạc di cư tại hải ngoại. Chị có nghĩ đây là điểm nghịch lý không? Và Thụy Khuê là... fan của Mai Thảo hay Võ Phiến?
TK: Câu hỏi này có 2 phần: Trước hết, Quỳnh Mai nói về nghịch lý trong nhận định của tôi về Võ Phiến và Mai Thảo; theo tôi, không có nghịch lý: Hai nhà văn đối lập nhau về văn phong và cách sống, vẫn có thể cùng đứng hàng đầu trong một nền văn học.
Mai Thảo có bút pháp lãng mạn thời thượng, được độc giả trẻ miền Nam yêu mến. Sách ông best-sellers trong nhiều năm. Đã thời thượng như thế, thì dễ lỗi thời, nhưng Mai Thảo không, và tôi đã phân tích lý do tại sao trong bài viết về Mai Thảo.
Võ Phiến ngược lại, trước 75, không có nhiều người đọc. Vũ Khắc Khoan thấy văn Võ Phiến «tù lù mù», có lẽ bởi tác phẩm của Võ Phiến mô tả những con người tầm thường, những tình huống tầm thường, chuyện không có chuyện, cho nên mới «tù lù mù» và không thể là best-sellers. Nhưng giá trị một tác phẩm không nằm trong sự bán chạy. Khi ra hải ngoại, sống trong hoàn cảnh di tản, con người bị mất gốc rễ, mới tìm lại tác phẩm Võ Phiến. Đọc và khâm phục tài năng của ông.
Điểm thứ nhì: Nếu nói về chữ fan, theo đúng nghiã của nó thì tôi không fan Mai Thảo và Võ Phiến. Fan ngụ ý mê say, tôn sùng gần như mê muội, do cảm tính, trong khi người phê bình phải sáng suốt khảo sát tác phẩm và nhất là phải giữ khoảng cách đối với tác giả.
Cần phải nhớ rằng: Văn bản phê bình chỉ dành cho độc giả, không dành cho tác giả mà mình phê bình. Cho nên, nếu viết cho vừa lòng tác giả, đôi lúc, chỉ sản xuất ra những văn bản nịnh bợ, sớm muộn gì cũng chết. Khi Mai Thảo còn sống, vì thân thiết và quý mến ông, tôi tránh không viết gì, vì nghĩ mình sẽ không khỏi thiên vị khi viết về ông.
Vì vậy, đối với Mai Thảo và Võ Phiến, tôi thích dùng chữ cảm phục hơn. Lấy lại ý của Georges Poulet khi nói về Mme de Staël (được coi là nhà phê bình ý thức đầu tiên của Pháp, cuối thế kỷ 17), Poulet cho rằng ý thức phê bình của bà de Staël bắt nguồn từ ý thức cảm phục (admiration). Sự cảm phục phát tự đáy lòng khi đọc một tác phẩm hay, sẽ dẫn đến văn bản phê bình. Nếu không có sự cảm phục này thì không có phê bình. Tôi cảm phục một số truyện ngắn, truyện dài, tuỳ bút của Võ Phiến và một số tiểu thuyết, truyện ngắn, tuỳ bút và thơ của Mai Thảo. Thơ Võ Phiến không hay. Tôi không thích Võ Phiến trong cách ông phê bình văn học và Mai Thảo trong những bài sổ tay viết vội, theo lối tạc thù.
LQM : Nhà văn Trần Vũ nhắc đến Mai Thảo trong 1 phỏng vấn của Chị rằng « ... Lúc sinh tiền, Mai Thảo thường nhắc, em không dụng chữ cho mục đích phi văn chương, không chửi ai, văn chương không phải là chỗ cho em bựa. Em không được quyền... » Nhưng thực tế qua mấy thập niên tại hải ngoại nói riêng, không ít lần văn chương bị... hiếp dâm không thương tiếc cho mục đích... phi văn chương. Chị có cảm nghĩ gì về sự kiện đáng buồn trên?
TK:Có lẽ Quỳnh Mai muốn nói đến hiện tượng dùng chữ tục, hay viết về sex để gây sốc phải không? Vậy tôi đề nghị chúng ta nên loại trừ hai chữ hiếp dâm ra, bởi đó cũng là kiểu dùng chữ của một số người thích gây sốc. Theo tôi, không có gì cấm kỵ cả: Chữ tục, nếu đặt đúng chỗ, có thể rất hay; nhưng nếu chỉ cốt gây sốc, nó sẽ phản tác dụng: cái viết trở thành tục tĩu. Viết sex, dễ trở thành dâm ô, phải có bản lĩnh cao cường lắm mới thành công. Tôi thấy Võ Đình và Nguyễn Bình Phương là những nhà văn viết về sex rất đạt. Cao Xuân Huy viết tục rất thành công.
Văn bản trước tiên là một thực thể chữ nghiã, hay đến độ nào đó thì nó trở thành văn chương, dở, hoặc tục tĩu, hoặc dâm ô, nó sẽ bị đào thải, và cũng không ai gọi đó là văn chương.
Mai Thảo chỉ muốn khuyên Trần Vũ nên thận trọng với chữ nghiã, đừng dùng chữ vào việc chửi bới (dù người ta có thể khoác cho nó cái tên đẹp là tranh luận). Chữ nghiã, đối với nhà văn, là để phục vụ văn chương, không thể dùng vào những việc hạ tiện.
LQM : Hi vọng của nhà phê bình văn học Thụy Khuê cho văn chương hải ngoại? Chị có thích đọc tác phẩm trên Net, qua Apple iPad chẳng hạn?
TK: Văn chương hải ngoại ngày trước, là một nền văn học do người Việt miền Nam, di tản ra hải ngoại, thành lập, ly khai với nền văn học chính thống ở trong nước, xuất hiện từ 1975 đến 1995 và kéo dài đến 2000, đỉnh cao là những năm từ 1987 đến 1990. Theo tôi, nền văn học này đã gần như kết thúc. Ngày nay, những gì in hoặc đưa lên mạng tại hải ngoại, nên gọi là Văn học Việt Nam công bố ở nước ngoài.
Những tác giả của nền Văn học hải ngoại, phần lớn là những nhà văn miền Nam, nay đã già yếu hoặc qua đời. Các cây bút bắt đầu viết và nổi tiếng tại hải ngoại, nay cũng đã nhiều tuổi, phần lớn đã gác bút, hoặc viết rất ít. Lý do thì nhiều lắm: vì hoàn cảnh sinh sống; vì không nói, không nghe thường xuyên tiếng Việt; vì không có nhiều người đọc; vì không có bạn văn để bàn bạc, tranh luận, thúc đẩy, tìm đề tài...
Nếu họ muốn tiếp tục, thì phải tìm cách đi sâu vào tiểu thuyết hướng nội, có tính cách triết học, khám phá vùng tiềm thức của con người. Hoặc phải nhập vào đời sống của người bản xứ, để viết về con người và xã hội nhập cư. Ở hải ngoại chỉ có Võ Đình là thành công nhất.
Còn thế hệ sinh ra hoặc lớn lên tại hải ngoại, không rành tiếng Việt, làm sao có thể đọc và viết tiếng Việt được?
Tóm lại, toàn bộ người di tản trên khắp năm châu cũng chỉ độ 2, 3 triệu, trong đó một nửa sinh sau 1975, một phần lớn đã già yếu; thành phần hiểu và viết được tiếng Việt, còn lại bao nhiêu? Trong nước hiện nay có đến hơn tám mươi triệu dân, vậy nhân tài trong nước, phải gấp sáu, bẩy mươi lần ở ngoài nước, tính theo bình quân đầu người.
Vì thế, những gì in trên sách báo hải ngoại và Internet hiện nay, có thể nói quá nửa, là do người trong nước viết ra; vì không in được ở trong nước, hoặc đã in ở trong nước rồi, muốn gửi ra ngoài để hải ngoại đọc; vì vậy nên tôi đề nghị gọi chung đó là nền Văn Học Việt Nam công bố ở nước ngoài.
Hiện nay trên Internet, các đài phát thanh quốc tế như BBC, RFI, VOA, RFA, giữ vai trò chính yếu, có những đóng góp hàng đầu trong việc dân chủ hoá đất nước với những thông tin mới nhất, những vấn đề nóng bỏng nhất. Đó là phương tiện nhanh nhất để biết về tình hình trong nước và thời sự quốc tế.
Nhưng Internet là một công cụ chuyển tải thông tin hơn là văn hoá.
Văn hóa dưới các hình thức như kịch, opéra, cinéma, ca nhạc, bảo tàng,... có phát triển mạnh hơn nhờ sự giới thiệu của Internet. Nhưng Internet không thay thế được nhà hát, rạp chiếu bóng, viện bảo tàng. Theo thống kê, ngày nay người Pháp vẫn mua và đọc sách nhiều như thời chưa có Internet.
Văn học được chuyển tải, nhờ Internet, qua các mạng báo điện tử. Ưu điểm: Bài viết được in ngay, không phải đợi chờ như các báo in. Nhược điểm: Một số mạng, vì cạnh tranh, muốn có nhiều bài lên trang mỗi ngày, cho nên không lựa chọn, bài đến là đăng ngay, thượng vàng hạ cám, làm độc giả chán, vì thế đôi khi người ta chỉ đọc dăm ba bút hiệu quen thuộc. Mất tín nhiệm, đó là nguyên do triệt hạ các ngòi bút mới, vì nhiều người không «mạo hiểm» đọc họ! Một số mạng trở thành diễn đàn của các cuộc «tranh luận». Khi có vụ đánh đấm nào, vì tò mò, người ta vào đọc, sau đó trở lại tình trạng bình thường, thì họ lại chỉ lướt qua cho biết «mặt hàng» mà thôi.
Ngày trước, người đọc mua các tờ Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn, vì biết những bài đăng ở đấy đã được Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Lê Ngộ Châu, Trần Phong Giao... lựa chọn rồi. Ngày nay, thơ văn trên mạng, vì quá nhiều, nên bị lạm phát. Đó là hiện tượng: nhiều thông tin giết thông tin, nhiều văn học giết văn học.
Trở lại câu hỏi của Quỳnh Mai: Tôi ít khi đọc sáng tác trên Internet, trừ trường hợp các tác phẩm không in được ở trong nước hoặc các sách cũ đã tuyệt bản. Tôi cũng ít tìm tài liệu trên Internet. Umberto Eco có kinh nghiệm về vấn đề này, nói đại ý: Khi cần tra cứu điều gì, nếu ấn vào con chuột, là có ngay 5, 6 ngàn thông tin trước mắt, mình lập tức bị tẩu hoả nhập ma, không biết chọn cái nào, từ đó ông cạch hẳn. Eco nói đùa nhưng cũng rất thực: muốn dùng thông tin trên Internet, trước hết phải có khả năng lựa chọn cái đúng cái sai. Và khi phải lựa chọn như thế, nếu mình có trước mắt vài cuốn sách tin được đến 80 hoặc 90% thì khoẻ hơn nhiều. Còn nếu phải mò mẫm trong mấy trăm thông tin xem cái gì dùng được thì thật rối mù, rất mất thì giờ. Thêm nữa, những gì về văn sử học Việt Nam có rất ít trên Intrenet, những thông tin của Wikipédia rất đáng ngờ, vì không kiểm chứng; ngay cả những sách biên khảo của Đào Duy Anh, Nguyễn Hiến Lê... cũng còn nhiều chỗ rất sơ sài, đại cương, duy có sách Phan Huy Chú, Hoàng Xuân Hãn... là đáng tin cậy. Do đó, tôi chỉ dùng Internet trong những trường hợp đặc biệt mà thôi.
LQM : Được biết Chị là một người rất mê sách. Tác phẩm và tác giả nào chị ngưỡng mộ nhất? Một của Việt Nam? Một của nước ngoài?
TK: Quỳnh Mai chỉ cho phép hai, thì xin chọn Phan Khôi và Jean Paul Sartre. Tôi cho rằng đó là những nhà văn toàn diện. Họ có ảnh hưởng đến dân tộc họ trong một giai đoạn dài. Đối với Việt Nam, Phan Khôi tiên phong trong các ngành: phê bình văn học, thơ mới, tranh luận văn học, phê bình Khổng giáo, tranh đấu cho nữ quyền... Ông còn có những đóng góp trong các lãnh vực dịch thuật, thơ và truyện ngắn. Phan Khôi là học giả đầu tiên đưa tinh thần phản biện vào nghiên cứu, đưa tinh thần dân chủ vào đời sống Việt Nam. Là người lãnh đạo tinh thần Nhân Văn Giai Phẩm, những đòi hỏi về dân chủ và tự do tư tưởng của Phan Khôi và NVGP, đến ngày nay, hơn một nửa thế kỷ qua, dân tộc ta vẫn còn chưa đạt được.
Jean Paul Sartre làm thay đổi đời sống tinh thần của người Pháp trong thế kỷ XX: ông đem triết học hiện sinh vào phê bình và sáng tác. Truyện và kịch của Sartre làm khuynh đảo kịch trường, điện ảnh và đời sống tinh thần của người Pháp. Sartre đưa phê bình đến ngọn nguồn của chữ nghiã. Trước Sartre, người Pháp chưa có ý thức mạnh mẽ về bản thân. Sau Sartre, người ta có ý thức sâu sắc về bản thân: Con người là tổng kết của những gì mình đã làm được trong suốt cuộc đời. Nếu anh sinh ra, chỉ ăn để mà sống, rồi chết, thì anh cũng chả là cái gì. Từ đó phát sinh những suy nghĩ sâu lắng về thân xác, về tâm thân, về hành động và sự hiện hữu của con người.
LQM : Chắc hẳn tủ sách gia đình của chị thật vô giá. Chị sẽ làm gì với những tác phẩm này, nếu ngày nào đó, ví dụ Chị không còn khả năng giữ được nữa?
TK: Quỳnh Mai muốn biết trước khi «tịch» thì tôi giao sách cho ai, phải không? Thật ra thì cũng chưa biết phải làm thế nào. Quý nhất là những bộ từ điển hiếm như: Génibrel (1898), Khai Trí Tiến Đức (Việt Nam tự điển) (1931), Gustave Hue (1937), Eugène Gouin (1957)... Từ điển Pháp Việt của Đào Duy Anh và của Đào Đăng Vỹ, cũng rất tốt, trong nước hình như chưa in lại. Hán Việt, ngoài từ điển của Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Khôn, còn có bộ của Thiều Chửu khá đầy đủ. Phan Khôi nhận xét rất đúng: quốc ngữ phát xuất từ tiếng Bắc vì do các cha cố đến đàng ngoài trước, sáng chế ra theo tiếng Bắc, nhưng chỉ dùng trong việc giảng đạo. Phải đến Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của, chúng ta mới có từ điển tiếng Việt thực thụ. Vậy từ điển quốc ngữ do người Nam làm ra. Đại Nam Quấc Âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của là gốc, đầy đủ và không có lỗi chính tả. Và cho đến bây giờ, bộ từ điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ (người Nam) cũng vẫn là bộ đầy đủ nhất. Các từ điển in sau này ở Bắc, thiếu và sai nhiều lắm. Vậy những ai chủ trương lấy tiếng Bắc làm chuẩn thì nên xét lại. Tôi theo Phan Khôi: nghiã là tiếng Việt phải là tiếng toàn diện của các miền trên đất nước, từ Nam ra Bắc, không nên có miền nào ưu tiên, được lấy làm chính ngữ, còn các miền khác là phương ngữ.
Trong nhiều năm tôi giúp những người dịch Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Pháp, ngôn ngữ của Thiệp nhiều chữ hiếm, chữ cổ, các câu hát cổ, các cách phát biểu theo lối xưa, đôi khi có hai ba nghiã, phải tra các từ điển cổ và đầy đủ như Génibrel, Gouin, Gustave Hue... để dịch sang tiếng Pháp, chọn lấy một chữ phù hợp với văn bản, sau đó phải kiểm chứng lại chữ này trong Larousse Universel hoặc Littré xem có đúng với nghiã mà người Pháp dùng không. Nhưng bây giờ người ta dịch nhanh lắm. Có người một năm dịch mấy cuốn sách dầy. Có người đi Pháp vài năm đã viết được sách tiếng Tây. Nhiều người cho rằng tiếng Việt ai cũng biết, khỏi phải tra từ điển. Và khi dịch sang tiếng Pháp, chữ nào đã biết nghĩa, cứ thế mà dịch, không cần tra lại từ điển nữa. Vì những cẩu thả đó mà chúng ta có rất ít dịch phẩm tin được.
Trở lại với vấn đề thư viện của tôi. Sau từ điển là đến các sách ngày nay đã tuyệt bản, và trong nước vẫn cấm. Rồi những văn bản quý như bản dịch Hoa Tiên sang tiếng Pháp viết tay của Nguyễn Tiến Lãng. Bản viết tay Nguyễn Văn Vĩnh dịch Kiều. Thư từ Mai Thứ viết cho Lê Thị Lựu. Thư Mai Thứ gửi Huỳnh Trung Đồng, lên án chính quyền cộng sản về việc thuyền nhân vượt biển, chất vấn tại sao nhiều lần ông xin về Việt Nam dạy hội họa mà nhà cầm quyền cộng sản lờ đi. (Hoàng Xuân Hãn muốn về nước nghiên cứu ngay từ sau 1975, cũng bị chính quyền từ chối). Thư của Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng về tình trạng tranh của ông dưới thời ông Diệm và sau ông Diệm. Bộ sưu tập tranh Lê Thị Lựu, dành trao cho viện bảo tàng, khi được bảo đảm không bị bán đi ngoại quốc, vv...
Còn sách Pháp dễ kiếm hơn, và các sách của Văn học tiền chiến, Tự lực văn đoàn, Văn học miền Nam, Văn học hải ngoại, nhiều nơi đã có và cũng được đưa lên Internet khá nhiều.
Tóm lại, có những tư liệu và văn bản quý, có thể gửi về thư viện và viện bảo tàng. Nhưng muốn gửi về trong nước cũng khó, ai nhận? Nhất là những sách quý ấy lại bị cấm. Chính bản thân tôi cũng chưa về được, còn nói gì đến sách và tư liệu khác?
LQM : Chị có cảm tưởng gì về việc tạp chí Văn lặng lẽ biến mất khi người chủ biên cuối cùng còn hiện diện, cũng như tạp chí Văn Học... chết trước người chủ biên cuối cùng cả năm như vậy?
TK: Tạp chí Văn ngừng, theo tôi biết là vì anh Nguyễn Xuân Hoàng lúc đó bị bệnh, thêm ngân quỹ càng ngày càng eo hẹp, đời sống khó khăn không thể bỏ tiền túi ra in báo được nữa.
Báo Văn Học thì vì Cao Xuân Huy bị ung thư mắt, phải mổ, không nhìn rõ thì làm sao layout được?
LQM : Xin chị phát biểu cảm nghĩ về sự ra đi vừa qua của Chủ biên tạp chí Văn Học và tác giả « Tháng Ba Gãy Súng », nhà văn Cao Xuân Huy?
TK: Tôi quen Cao Xuân Huy từ lần sang Cali, khoảng 1989. Lúc ấy, Huy đang làm thư ký toà soạn Văn Học, hình như Huy làm hết, từ đánh máy, layout đến đem in, anh Nguyễn Mộng Giác là chủ biên, trông coi bài vở. Anh Giác hồi đó đã than với tôi là Huy ba gai lắm, bài nào không thích Huy cho vào sọt rác ngay, dù tác giả là những người nổi tiếng. Tôi thích Huy ở cái tính ba gai đó. Năm 1991, tôi và Huy có chuyện không vui: trong một bài viết, Huy đả kích nặng nề cuốn Tiểu thuyết vô đề của Dương Thu Hương do thầy Từ Mẫn Võ Thắng Tiết (nxb Văn Nghệ) in và tôi viết tựa, vì trong đó có đoạn «xúc phạm» đến quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Từ đó, giữa tôi và Huy như có gì ngăn cách, sang Mỹ tôi không muốn gặp Huy nữa. Nhưng anh Giác nói với tôi «Huy muốn gặp chị», thế là tụi này lại «huề». Tình bạn trở lại như xưa. Huy ít nói, thân thể vạm vỡ, râu ria rậm rạp, mỗi lần gặp, Huy «ôm hôn» kiểu rất Tây, và cũng biến mất rất nhanh. Ngồi ăn chung với các bạn trong báo Người Việt, Huy chỉ tủm tỉm cười. Khi Huy làm lại tờ Văn Học, trong Email giục bài, bao giờ cũng chỉ vắn tắt: «Chị ơi, bài đâu, sao lâu quá!». Sau này, trong Hợp Lưu đặc biệt về Mai Thảo (số 100, tháng 5 và 6/2008), đọc bài của Huy, tôi giật mình: Gặp Mai Thảo, Huy cũng... không chào! Giữa tôi và Huy như có cái gì tri kỷ. Điều tôi ân hận nhất là đã không viết về Tháng Ba gẫy súng khi Huy còn sống, đúng là «bụt nhà không thiêng». Nếu tôi cố ý không viết gì về Mai Thảo lúc ông còn sống, vì ông đã có quá nhiều tôn vinh phù phiếm, thì với Cao Xuân Huy, không viết là một lỗi nghề nghiệp: bỏ qua một tác phẩm hay của một người viết xứng đáng được giới thiệu như một nhà văn đích thực. Nhưng viết chậm cũng lại có cái may của nó, nhờ vậy mà bài Cao Xuân Huy mùa thu gẫy cánh có được cái nhìn thông suốt cả cuộc đời và tác phẩm của Huy, mà nếu viết từ trước thì không thể có đuợc.
LQM : Chuyện gì xẩy ra giữa chị và Dương Thu Hương «độ ấy»?
TK: Chuyện qua 20 năm rồi, nếu Quỳnh Mai muốn biết, thì bây giờ cũng có thể kể lại sơ lược: Tháng 4/1991, nhà cầm quyền Hà Nội bắt Dương Thu Hương. Việc này làm rung động dư luận, không những Việt nam, mà cả thế giới, vì Dương Thu Hương lúc đó nổi tiếng là nhà văn can đảm hàng đầu dám trực diện với chính quyền cộng sản. Cùng lúc ấy thì văn bản Tiểu thuyết vô đề được gửi ra ngoại quốc. Một người bạn của Dương Thu Hương, nay chuyện đã cũ, tôi có thể nói rõ, người ấy là Bạch Thái Quốc, đưa văn bản cho tôi, nhờ viết tựa và gửi sang Mỹ in. Thầy Từ Mẫn nhận in, mặc dù lúc ấy việc in sách ở trong nước đang bị chống đối dữ dội, và thầy cũng muốn tôi viết tựa, vì trong sách có những đoạn «nhậy cảm» có thể gây sốc cho quân đội Việt Nam Cộng Hoà và cộng đồng di tản. Vì muốn tác phẩm, mà tác giả đang bị tù, sớm ra đời, cho nên tôi đã nhận lời viết tựa, mặc dù tác giả không nhờ. Khi Dương Thu Hương ra khỏi tù, năm 1992, chị viết bài Tự bạch về Tiểu thuyết vô đề, nói rõ lập trường của mình và phản bác một số lập luận của tôi (mà chị gọi là ông Thụy Khuê) trong bài tựa. Tôi viết bài trả lời, nói rõ lý do in ấn và giải thích từng điểm trong bài viết của tôi. Sau đó, Dương Thu Hương viết lá thư xin lỗi và tôi cũng viết lời chân thành cảm ơn chị. Tất cả những văn bản này đều được đăng rộng rãi trên báo chí hải ngoại thời đó.
LQM : Lần cuối cùng chị về Việt Nam là năm nào?
TK: Tháng 9/1997.
LQM :Vì cớ gì chị không trở lại? Chị có «nhớ nước» không?
TK: Làm người ai chẳng nhớ nước. Tôi rời Hà Nội tháng 10/1954 lúc mới lên mười. Rời Sài Gòn tháng 9/1962, năm 18 tuổi, đi du học rồi ở lại Pháp. Từ đó đến nay, chỉ về nước có 4 lần: Hè 1974, về Sài Gòn. Tháng 8/1984, về Sài Gòn lần thứ nhì và ra Hà Nội. Tháng 9/1993, về Hà Nội rồi đi Huế, vào Sài Gòn. Tháng 8/1997, lần thứ tư, về nước gặp khó khăn, nhiều năm sau không muốn về nữa.
Mùa thu năm 2004, vì có nghị định số... gì đó về Việt kiều, đại ý nói mọi người đều về được. Chúng tôi ra hãng du lịch mua 2 vé, khai rõ ràng tên thật, cả bút hiệu, nghề nghiệp và nơi làm việc... và được họ «bảo đảm» là không bị khó khăn gì vì đã có nghị định mới. Hơn tháng sau, gần đến ngày khởi hành, mới được báo tin: «Chúng tôi đã xin hết các cửa khẩu, Sài Gòn, Đà Nẵng và Hà Nội, chị bị cấm cả ba». Hiểu tình thế, chúng tôi chỉ nhờ họ xin nhà chức trách ghi rõ lý do, để có thể đòi hãng máy bay hoàn lại tiền vé, nhưng nhà chức trách không trả lời. Từ ngày đó tôi không «xin về» nữa, bởi vì đi về nơi chôn rau cắt rốn là quyền tuyệt đối của con người. Mình chỉ có thể bị cấm khi làm chuyện phạm pháp. Tất cả mọi cấm đoán khác chứng tỏ sự lạm pháp của nhà cầm quyền. Những bậc tiền bối lẫy lừng như Hoàng Xuân Hãn, Mai Thứ... đều đã kinh qua. Tôi chẳng cần phải nói gì thêm nữa.
LQM : Tuy vậy, với cương vị là nhà phê bình văn học, chắc chị vẫn theo dõi tình hình văn chương trong nước? Theo chị, có cởi mở hơn không? Chị nghĩ thế nào về việc in ấn phát hành tác phẩm của một số tác giả hải ngoại, khi họ trở về thăm Việt Nam?
TK: Mới đây Nguyễn Thanh Sơn có tuyên bố đại khái rằng: Ở hải ngoại có tự do mà các nhà văn cũng chẳng viết được gì. Còn ở trong nước, người viết cũng rất tự do, cứ việc viết rồi đăng trên Internet thì có ai cấm đâu, vậy mà cũng chẳng có tác phẩm hay. Ý Nguyễn Thanh Sơn muốn nói là bây giờ đã tự do lắm, chỉ tại không có ai viết ra hồn đó thôi. Tóm lại, theo Sơn, tự do là tại mình, mình sợ, mình tự kiểm duyệt cũng lỗi tại mình.
Là người viết phê bình mà Nguyễn Thanh Sơn nói như vậy là chẳng hiểu gì về bản chất của hành động viết.
Việc ở hải ngoại có tự do mà nhà văn không viết được, tôi đã nói rõ các lý do ở trên, ở đây chỉ nói về nhà văn trong nước.
Viết là hành động «vén màn» (dévoiler, chữ của Sartre). Vén màn cho người đọc thấy những tình huống của cuộc sống. Vén màn cho thấy tình yêu, thấy xã hội, thấy lừa lọc, thấy khổ đau, thấy hạnh phúc, thấy chiến tranh, thấy hoà bình, thấy thủy chung, thấy phản bội, thấy tự do, thấy dân chủ, thấy nô lệ, thấy ngục tù, thấy sống, thấy chết... Con người tiến bộ là con người biết tự sửa mình. Xã hội tiên tiến là xã hội biết tự sửa mình. Sự sửa mình của xã hội luôn luôn dựa trên văn nghệ sĩ: nước Mỹ tự sửa sự kỳ thị chủng tộc, nhờ những nhà văn, những đạo diễn điện ảnh kỳ tài đã vén màn lên trên sự kỳ thị chủng tộc, để người Mỹ tự soi, thấy xấu hổ mà sửa đổi đi. Đầu thế kỷ XX, người Pháp còn vô cùng kỳ thị với vấn đề đồng tính, André Gide đã viết những tác phẩm tuyệt vời về đồng tính, khiến ai đọc qua cũng phải đoạn tuyệt với ý tưởng kỳ thị đồng tính. Thập niên 40 thế kỷ XX, vấn đề nữ quyền còn chưa được đặt ra một cách có hệ thống ở Âu châu, Simone de Beauvoir viết Deuxième sexe (Phái thứ nhì) làm chao đảo tinh thần những kẻ khinh đàn bà, khiến đọc xong, họ phải cúi đầu bái phục. Thập niên 90, sự kỳ thị bệnh Sida còn đang tung hoành trên thế giới, phim Philadelphia của Jonathan Demme với Tom Hanks (Oscar 1994), đã làm những người kỳ thị bệnh Sida phải thay đổi hoàn toàn thái độ của mình.
Khi con người bị bắt buộc phải chấp nhận chế độ mình đang sống là hoàn hảo, không có gì phải sửa, thì mọi khía cạnh tiêu cực sẽ trở thành tích cực. Khi không có phê bình, thì chỉ còn sự tự mãn và thoái hoá.
Ở nước ta ngày nay, có bao nhiêu vấn đề cần phải xem lại, cần phải khảo sát?
Và bao nhiêu vấn đề nhà văn được tự do nói đến mặt trái của nó?
- Chiến tranh ư? Chỉ có cuộc chiến thần thánh đánh Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc.
- Lãnh tụ ư? Chỉ có một bác Hồ vĩ đại miên viễn.
- Tham nhũng ư? Chỉ là trường hợp cá nhân, giới hạn trong hàng ngũ các con chiên ghẻ.
- Dân chủ và Nhân quyền ư? Là địa hạt «nhậy cảm», những người dám đòi hỏi công khai đã vào tù.
- Báo chí ư? Nhà cầm quyền kiểm soát.
- Muốn được in ư? Nhà văn có sẵn một quá khứ bưng bít và một hiện tại tốt đẹp dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng, làm khung.
Đó là tự do chăng?
Người viết nào cũng muốn cho đồng bào mình đọc. Nhưng nay, tác phẩm viết xong, phải gửi trên Internet, ở những mạng có thể sẽ bị tường lửa chặn, hỏi rằng còn mấy ai đọc?
Một tác phẩm hay là xương máu của con người trong nhiều năm, viết rồi bị số phận như vậy, ai còn can đảm viết?
Cuốn tiểu thuyết mới nhất của Nguyễn Bình Phương, rất có giá trị, đưa 5 nhà xuất bản đều lắc đầu, biết là hay mà họ không dám in. Nếu tự do tại sao họ lại không dám in?
Viết, trước tiên là để cho đồng bào mình đọc. Đồng bào mình tự soi mà sửa đổi những sai lầm của chính mình và của dân tộc mình, để tiến tới. Sách bán ra để nuôi sống tác giả. Sống bằng tác quyền là vinh dự của nhà văn. Bây giờ, tác phẩm phải đưa lên Internet, và nếu cần đã có tường lửa chận. Thế thì viết để làm gì?
Hiện trạng văn học như tôi vừa nói, đã ít nhiều trả lời câu hỏi thứ nhì của Quỳnh Mai: Chị nghĩ thế nào về việc in ấn phát hành tác phẩm của một số tác giả hải ngoại, khi họ trở về thăm Việt Nam?
Người viết nào cũng mong sách của mình được đồng bào đọc, đó là lý tưởng.
Nhưng muốn được in ở trong nước, thì nhà văn hải ngoại phải trải qua cái cầu thanh lọc giống như các nhà văn trong nước, tức là phải tự tước quyền tự do tư tưởng của mình, tự cắt tay chân cho vừa cái khung «nhập gia tùy tục». Đó cũng là một lựa chọn. Và phải trả giá khá đắt.
Cách đây 55 năm, bao nhiêu trí thức văn nghệ sĩ trong phong trào NVGP đã đứng lên đòi hỏi quyền tự do sáng tác? Và họ đã phải trả giá cả cuộc đời còn lại.
Bây giờ, để được in sách, bao nhiêu văn nghệ sĩ, đã từng vượt biển tìm tự do, nay quy về, chịu sự kiểm soát tư tưởng của nhà cầm quyền? Đó cũng là một lựa chọn. Nhưng ngược dòng.
LQM : Chị có tin giao lưu văn hóa đã thật sự được luân lưu giữa đàng trong và đàng ngoài? Chị ủng hộ hay không ủng hộ biện pháp này? Tại sao có và tại sao không?
TK: Chắc Quỳnh Mai muốn nói trong nước và ngoài nước phải không? Vì đàng trong và đàng ngoài là tiếng dùng để chỉ Nam-Bắc thời Trịnh-Nguyễn. Nếu tôi đoán đúng ý Quỳnh Mai, thì xin trả lời như thế này:
Văn hoá, trong đó có văn chương, là một dòng chảy. Nếu là văn chương đích thực thì nó tự giao lưu, không cần ai cho phép. Chúng ta vẫn đọc tác phẩm ngoại quốc mà có cần ai cho phép giao lưu đâu. Nhưng nước mình, vì hoàn cảnh chiến tranh 20 năm, có sự căm thù do chính trị đưa ra; tuy vậy văn chương đích thực của hai miền Nam Bắc chưa bao giờ đứt đoạn. Tôi có bạn văn ở Bắc ngay từ những ngày đầu chương trình Văn Học Nghệ Thuật mới phát về Việt Nam, và chương trình này không thể tồn tại được 19 năm, nếu không có sự giúp đỡ và cộng tác nhiệt thành của các văn nghệ sĩ và trí thức trong và ngoài nước.
Một điểm nữa: nhà văn có thể trở thành tri kỷ qua các tác phẩm. Không cần gặp mặt. Không cần cùng thời. Đó là hiện tượng giao lưu kỳ lạ nhất của văn học nghệ thuật.
LQM : Xin chị phát biểu ý kiến về vụ Nhân Văn Giai Phẩm trong nước năm xưa?
TK: Câu hỏi rộng quá, chỉ xin trả lời Quỳnh Mai, giới hạn trong một số việc làm của tôi mà ít người biết:
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm ám ảnh tôi từ khi còn đi học. Trong Nam, tài liệu duy nhất đáng tin cậy là cuốn Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc của Hoàng Văn Chí (1959). Năm 1984 về nước, tôi cố tìm lại dấu vết, nhưng thấy đã bị chôn vùi hẳn: hỏi người thân, không ai biết có NVGP. Cho nên khi bắt đầu viết phê bình, tôi đặt mục đích là sẽ tìm hiểu hiện tượng văn học này. Từ đó gặp bất cứ mảnh báo, mảnh tin gì liên hệ tới NVGP tôi đều thu thập. Tình cờ có người bạn cho mượn cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận, đây là tập tài liệu in ở Bắc, năm 1959, chép những đoạn chính các bài báo đánh NVGP của các văn nghệ sĩ. Nhờ cuốn tư liệu quý giá này, tôi viết bài đầu tiên về NVGP đăng trên báo Văn Học, tháng 4/1988. Bài ấy được độc giả thích và ông Georges Boudarel, người có nhiều tài liệu nhất về NVGP, cũng liên lạc với tôi, ngỏ ý rất thích. Riêng ông, tháng 1/1988, ông cũng đã viết bài nghiên cứu về NVGP in trên tạp chí chuyên đề và năm 1991, ông mở rộng thành cuốn «Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam» (Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam).
Nhờ địa bàn rộng lớn của RFI, tôi đưa vấn đề NVGP về nước trên sóng cùng với những vấn đề tự do dân chủ, và được sự ủng hộ của văn nghệ sĩ và trí thức, đặc biệt Trung Tướng Trần Độ. Năm 1993, khi về nước, ngoài các văn nghệ sĩ khác, tôi gặp Trung Tướng Trần Độ, nhạc sĩ Văn Cao và nhà thơ Hoàng Cầm. Nhạc sĩ Văn Cao khuyên tôi nên phỏng vấn ông về NVGP, rồi đem cassette ra ngoài. Nhưng việc này không thực hiện được, vì khi đi Việt Nam tôi không đem theo máy thu thanh, đành phải điện thoại hỏi tùy viên văn hóa của sứ quan Pháp, để mượn máy ghi âm. Nào ngờ, vừa ngại nhà văn nhà báo (đệ tứ quyền), nhưng cũng lại ngại không muốn có «vấn đề» với nhà nước cộng sản, cho nên họ đề nghị một giảp pháp «trung dung»: sẵn sàng đưa tôi đến thăm đài phát thanh Hà Nội, «chào các đồng nghiệp» trước, rồi nhờ họ «ghi âm dùm» là tốt nhất!
Sự nghiên cứu NVGP, sẽ ngừng lại ở đây, nếu không có duyên may tiền định. Từ 1993 đến 1997, tôi không về nước. Tôi có phỏng vấn vài lần nhà thơ Hoàng Cầm qua điện thoại viễn liên, nhưng dù can đảm, ông cũng không thể nói hết. Lúc đó, tôi chưa quen nhà thơ Lê Đạt. Đến năm 1994, Lê Đạt được in tập thơ đầu tiên Bóng chữ. Tôi cũng nghe nói đến Bóng Chữ và nhờ người xin Lê Đạt một tập. Đọc xong, tôi viết bài giới thiệu trên RFI tháng 4/1995. Lê Đạt nghe. Từ đó anh có mối thân tình với người mà anh cho là hiểu thơ anh hơn cả. Nhạc sĩ Văn Cao mất ngày 10/7/1995. Sự nghiên cứu của tôi về NVGP, chỉ thực thụ bắt đầu từ Lê Đạt. Nhờ anh, tôi quen với Nguyễn Hữu Đang, và khi về nước năm 1997, lần đầu tiên và cũng là lần cuối tôi gặp anh Đang. Từ đầu năm 2009 đến nay, tôi dành hết thì giờ để nghiên cứu NVGP, cũng vì mối duyên kỳ ngộ, món nợ tinh thần, mà các anh, nay không còn nữa, đã quý mến và tin cậy nơi tôi.
LQM : Và xin Chị cho biết ý kiến về biến cố Hợp Lưu, và sự thay đổi Chủ biên của tạp chí văn chương này, một sự kiện đã gây chấn động cho văn học hải ngoại năm 2005.
TK: Tôi ở xa không biết rõ lắm, nhưng theo tôi đó cũng chỉ là sự thay đổi trong nội bộ một tờ báo, nhiều khi thì âm thầm, nhiều khi nóng bỏng và «nổ to» như trường hợp Hợp Lưu, nhưng sóng gió đã qua lâu rồi. Đối với người viết và người đọc thì hiện nay, điểm quan trọng nhất là Hợp Lưu, nhờ cố gắng đơn thương độc mã của nhà thơ Đặng Hiền, vẫn còn đến được với độc giả, trong thời buổi khó khăn này.
LQM : Sau bao năm hoạt động và có nhiều địa bàn khác nhau, có những bạn bè thân hữu gần như đều nổi tiếng thuộc giới nghệ sĩ đích thực. Chị có cảm thấy hạnh phúc thật sự không? Và hoài bão riêng của Chị có phải đã hoàn thành?
TK: Sự nâng đỡ của các bậc thầy, bậc đàn anh, và sự gặp gỡ các bạn văn đều đáng quý, nó thúc đẩy mình làm việc, và an ủi mình những lúc khó khăn, đó là hạnh phúc và cũng là may mắn không phải ai cũng có. Nhưng càng đi sâu vào đời cầm bút, nhất là đã trải qua những «trường văn trận bút», tôi dè dặt hơn, giới hạn sự giao thiệp của mình, chỉ giữ lại những gì cốt yếu. Viết là hành động cô độc, trước đây đối diện với tờ giấy trắng, bây giờ, đối diện với máy tính và những người bạn làm thinh là đống sách bên cạnh. Làm việc là lúc bình yên nhất. Khi bài đã xong, gửi đi, là nghĩ đến độc giả, đến những người bạn khác cũng vẫn làm thinh, ở một nơi nào đó, đang đọc, và đó là niềm hạnh phúc và may mắn thứ nhì. Tóm lại, làm văn học là đối thoại với im lặng. Hạnh phúc cũng trong im lặng. Còn các ồn ào khác, không quan trọng lắm.
LQM : Thụy Khuê có nghĩ đến việc nghỉ ngơi hay vẫn đang tiếp tục ... trả nợ văn chương? Nếu đang, thì Chị... đang thực hiện việc gì? Có thể cho quí độc giả chia sẻ chung không?
TK: Như vừa nói với Quỳnh Mai, tôi vẫn đang viết, và bây giờ, đang trả lời Quỳnh Mai, cũng là viết đây. Đã vào nghề văn thì khó thoát, vì bất cứ vấn đề gì trong cuộc sống cũng có thể gợi ý cho mình. Hiện tôi đang cố gắng hoàn tất cuốn sách về Nhân Văn Giai Phẩm, đã đăng dần trên mạng RFI, và gần đây trên Diễn Đàn Thế Kỷ có bổ sung, mà có lẽ Quỳnh Mai đã có dịp đọc qua một số bài.
LQM : Vì thế muốn hỏi chị về tương quan giữa NVGP và Nguyễn Ái Quốc, tại sao từ địa hạt văn chương chị lại bước sang chính trị? Chị không sợ người ta cho rằng chị muốn lật đổ thần tượng à?
TK:Mới nhìn qua thì văn học và chính trị là hai yếu tố khác nhau, nhưng nhìn sâu hơn, bất cứ vấn đề gì trong đời sống cũng liên quan đến chính trị. Bởi hàng ngày chúng ta sống với chính trị. Ví dụ, nếu Quỳnh Mai và tôi sống ở trong nước, thì chúng ta có thể viết như hiện nay chúng ta đang viết được không? Vì vậy, chính trị luôn luôn chi phối văn học.
NVGP là trường hợp điển hình nhất, nó xẩy ra dưới thời đại Hồ Chí Minh. Vậy ông là người có trách nhiệm tối cao. Việc nghiên cứu NVGP, thế nào cũng dẫn đến việc tìm hiểu Hồ Chí Minh, vì đó là mối tương quan nhân quả. Tình trạng văn học trong nước hiện nay, cũng vẫn có tương quan nhân quả với Hồ Chí Minh, mặc dù ông mất đã lâu rồi, nhưng chế độ chính trị do ông đem về xứ, đã khiến cho văn học Việt Nam tiếp tục bị sa lầy trong chế độ toàn trị.
Về việc tôi có «âm mưu thâm độc» muốn lật đổ «vị lãnh tụ tối cao», thì chắc Quỳnh Mai đã đọc đâu đó, tôi cũng biết qua. Để trả lời Quỳnh Mai, xin kể câu chuyện sau đây: Một hôm, nói chuyện với đứa cháu ngoại, đang học lớp 10, về lịch sử Pháp, tôi hỏi nó: Cháu nghĩ sao về Napoléon Bonaparte? Nó trả lời ngay: Ông ấy là người anh hùng của Pháp, nhưng cũng là một nhà độc tài khát máu (C’est un héros de la France, mais aussi un dictateur sanguinaire). Câu trả lời của cháu làm tôi giật mình, nhưng rồi tôi «ngộ» ra: người ta dậy cho trẻ cả hai mặt của người anh hùng, tức là người ta trình bày toàn diện các khía cạnh của người anh hùng để trẻ tự phán đoán và đưa ra ý kiến riêng, đó là dưới một xã hội tự do dân chủ có truyền thống từ 1789.
Tình trạng nước mình khác, trong nước, như ta đã biết, mọi người đều sống dưới chế độ toàn trị, dù muốn dù không, ai cũng phải suy tôn lãnh tụ. Nhưng đáng buồn hơn là có những người ở Pháp đã mấy chục năm, cũng vẫn chưa bước ra khỏi quỹ đạo Tống Nho, vẫn sùng bái lãnh tụ, không chấp nhận sự mổ xẻ «anh hùng» như một dữ kiện lịch sử cần phải khảo sát. Vậy sự thoái hoá đến từ bên ngoài.
LQM : Xin chị nói rõ hơn về phương pháp nghiên cứu văn bản Nguyễn Ái Quốc của chị.
TK: Nói ra thì dài dòng lắm, ở đây chỉ xin vắn tắt: Khi nghiên cứu về Phan Khôi, có những chi tiết dẫn đến Phan Châu Trinh, đến những ngày Phan Châu Trinh ở Pháp. Rồi từ đó, phải đọc những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc, viết trong thời gian 1919-1927, tại Pháp. Đọc rồi mới thấy một sự thật hiển nhiên: Những bài báo này, phải do một người học trường Pháp từ nhỏ, thấm nhuần văn hóa Pháp rất sâu, mới có thể viết được. Vì chính bản thân tôi, học trường Việt, dù đã ở Pháp gần 50 năm, cũng không thể viết được như thế. Quỳnh Mai còn lạ gì, tiếng Pháp là một trong những tiếng khó trên thế giới, phải biết rõ giống đực, giống cái, biết cách chia động từ, biết dùng đúng các thì (temps, modes), ấy là chưa kể đến các nuances (sắc thái) của mỗi từ, cách chơi chữ của người Pháp và lịch sử của mỗi chữ qua các thời đại. Phải biết rõ các ngõ ngách như vậy, thì mới viết được những bài báo chửi thực dân một cách chua cay, thâm thuý, đầy uy mua, như các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Chưa kể đến số lượng tư liệu đồ sộ chứng minh tội ác của thực dân mà các bài báo này chuyển tải. Vì vậy tôi đặt vấn đề cần khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc.
Hồi ký Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) xác nhận ông không biết viết tiếng Pháp, khi đến Pháp phải nhờ Phan Văn Trường viết hộ. Khảo sát kỹ, thì thấy ông đến Pháp giữa tháng 6/1919, và ở Pháp đến khoảng tháng 6/1923, tức là 4 năm. Nghiên cứu văn bản Nguyễn Ái Quốc (tất cả khoảng hơn 700 trang), người ta không thể mường tượng được một người mới học tiếng Pháp, chỉ trong bốn năm ở Pháp, mà có thể viết được nhiều như thế, với chất lượng văn chương cao như thế, với những nhân chứng rõ ràng và ghê gớm đến thế về tội ác thực dân. Đào sâu hơn nữa, thì thấy Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, mới chính là tác giả thực thụ các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc. Đó là kết luận sau khi đã khảo sát lịch sử và phân tích văn bản Nguyễn Ái Quốc.
LQM : Được biết Chị đã du lịch qua nhiều địa danh trên thế giới. Nơi nào đã để lại ấn tượng sâu sắc về tình người, về văn hóa, về nghệ thuật trong tâm hồn Thụy Khuê?
TK: Mỗi nơi mỗi khác. Mùa thu Canada vô cùng quyến rũ. Mỹ với những vực sâu vĩ đại, những thành quách, sông hồ, kỳ quan của thiên nhiên. Angkor, là kỳ quan của con người. Leo lên Machu Picchu (Pérou) để tới thành quách lưng trời. Đến Melbourne (Úc) là tận cùng trái đất...
Về tình người, người Mễ Tây Cơ gần mình hơn cả, họ xuề xoà dân dã như người miền Nam. Người Châu Phi (Algérie, Tunisie, Sénégal), mộc mạc, đôn hậu, trung thành, như người dân quê của mình. Về văn minh nhân loại, triết học Ấn Độ bao trùm triết học loài người. Về cách thụ hưởng đời sống: ăn uống, thưởng trà, thưởng trăng, âm nhạc, vũ điệu, phong cảnh, người Tàu tế vi trong toàn bộ nghệ thuật sống và hưởng thụ đời sống. Nhưng nước Việt... đẹp hơn cả. Đó là một viên ngọc dài, cong, dát những làng mạc li ti. Mỗi làng có một lũy tre, một đống rơm, một rặng chuối, một cây cau, một con đường làng khác biệt... không nơi nào có cả. Mỗi làng là một đơn vị văn hoá và tình yêu, là một người mẹ, làm cho người đi xa thắt ruột vì thương nhớ. Theo tôi, đó mới thực là hồn dân tộc.
LQM : Xin Chị phát biểu cảm tưởng của một người từng thực hiện những phỏng vấn rất sâu sắc và giá trị, phát thanh vào trong nước qua đài RFI, mà lại chiều một đàn em văn nghệ, nhận lời mời phỏng vấn đặc biệt này? Chị có nghĩ Lê Quỳnh Mai là... người... điếc không sợ súng?!!!
TK: Xin kể Lê Quỳnh Mai nghe chuyện này: Khi Phan Khôi viết bài tranh luận với Huỳnh Thúc Kháng, thì có một người viết bài trách Phan Khôi là nhỏ mà hỗn, dám cãi lại bậc cha chú (Huỳnh Thúc Kháng là bạn của Phan Trân, cha Phan Khôi). Phan Khôi trả lời: đã tranh luận thì không có cha chú gì cả, phải có tinh thần dân chủ: ai đúng lý thì thắng.
Chúc Quỳnh Mai mạnh tiến trong tinh thần dân chủ ấy. Luôn nhớ là trong văn chương, không có tuổi tác, không có lớn bé, không có nam nữ, chỉ có hay dở mà thôi.
LQM : Lê Quỳnh Mai xin chân thành cảm ơn chị Thụy Khuê, đã vui lòng nhận lời mời phỏng vấn và gởi đến quí độc giả Hợp Lưu những ý kiến sâu sắc nhất.
Lê Quỳnh Mai thực hiện
Montreal. 01.2011
(Đã in trên Hợp Lưu 113, số tháng 3&4-2011)