- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Cảm nghĩ về cuốn thơ mới “Năm chữ Du Tử Lê và, mười hai bài thơ, mới.”

17 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 84712)

dutule_hl108

LTS: Lê Vương Ngọc tên thật là Lê Đình Quỳnh, xuất thân là giáo sư tư thục Trung học các trường Hưng Yên, Hải Phòng thập niên 1950 và Sài gòn 1960. Ông nhìn vấn đề văn hoá như một “hobby” – Làm thơ, dịch sách, nghiên cứu, biên khảo nhiều về Phân tâm và Di truyền học – Theo quan niệm phê bình sáng tạo của Oscar Wilde…
TCHL 

Tôi có một cảm giác thật bất ngờ khi đọc xong bài đầu thơ năm chữ. Bất ngờ như lâu lắm đựơc gặp lại người tình xưa còn nguyên nụ cười nồng nàn tươi thắm… Vừa mừng vừa vui, dường như tôi có đọc đâu đây một tán thưởng thơ năm chữ của Du Tử Lê do một thẩm quyền văn hoá: Cố thi sĩ Nguyên Sa ở tập I “Du Tử Lê, tác giả và tác phẩm” đã viết “…Thời kỳ ở Việt Nam, thơ Du Tử Lê nhiều năm chữ, Lê làm thơ năm chữ thật tới…” Đọc lại vài lần, tôi chợt thấy bên cảm giác bất ngờ có thêm một tia sáng, rực lên một đốm lửa reo múa trong đầu tôi. Tĩnh lặng và thả hồn theo mạch thơ cuốn hút khá mãnh liệt của tác giả, tôi thấy từ lời đến ý, thơ Du Tử Lê chuyển hướng theo một chiều hướng ít nhiều khác lạ so với các sáng tác trước đây mà tôi tạm lấy “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu” làm mốc phân chia.
Tôi sẽ lần lượt phân tích những khác lạ nói trên.
Trước hết hãy đề cặp tới hình thức trình bày sách Du Tử Lê in nơi bìa bóng láng chữ màu xanh ngọc thạch trên nền đen, đặc biệt có ba tấm hình của thi sĩ sắp liền nhau theo mũi tên thời gian từ trái sang phải: Từ trẻ thơ qua trung niên tới bảng lảng trời chiều. Sự sắp xếp tự nhiên này khiến tôi nao nao trong lòng nhớ tới bài “L’enfant” của Victor Hugo, qua câu hát “chàng tuổi trẻ vốn gìong hào kiệt” và sau rốt là Lý Bạch nói lên cái sầu vạn cổ trong bài “Tương tiến tửu”: “…chiêu như thanh ty, mộ như tuyết…”
May thay nụ cười hồn nhiên của một Du Tử Lê sắp tới thất thập đã kéo tôi ra khỏi cái nao nao và được thay vào cái cảm giác an nhiên tự tại rất Lão-Trang qua cái cười hiếm có của Du Tử Lê, một cái cười rất trẻ thơ.
Theo thông lệ các tác phẩm của Du Tử Lê thường có nhiều tranh phụ bản của một số hoạ sĩ tên tuổi, nhưng kỳ này cũng khác lạ là hầu như mỗi bài thơ của Lê được minh hoạ bởi nghệ sĩ tài danh Đinh Cường theo thể phóng bút, đen trắng. Đọc thơ Du Tử Lê đã cần nhiều tưởng tượng mà xem minh hoạ của Đinh Cường cũng cần giầu tưởng tượng có phần hơn nữa. Nhưng phải công nhận minh hoạ của Đinh Cường đã nhất trí với thơ Du Tử Lê, giúp ta đi vào cõi mông lung của 2 nghệ thuật hợp nhất, mông lung, sâu thẳm và thoáng chút kỳ bí.
Trên tôi nói thơ Du Tử Lê kỳ này có điều khác lạ. Bắt đầu bằng từ ngữ, một số du nhập từ quê hương xưa cũ như “bó tay,” “giải trình, “tiếp thị,” “phế liệu,” “hộ khẩu”… Một số do chính tác giả tạo ra như “ký hoạ gió,” “sẹo vô luân,” “lố bịch đen,” “men dậy thì,” “chiều hoá trị,” “giác quan mộng mị” “vi trùng biệt ly”… Hơn nữa để trung thực hơn với ý thơ, nhiều từ trong đời thường đôi khi thô thiển ít tính chất thơ như “lợ,” “lời hứa dối”…cũng được sử dụng rất tự nhiên và cũng “tới” nhờ hỗ tương hình ảnh của toàn thể hơi thơ.
Thơ Du Tử Lê từ trước vẫn hằng đề cặp tới các vấn đề lớn lao, quan trọng của nhân sinh như: Tình yêu, và hận thù, định mệnh và tự chủ ý chí, chân lý và tôn giáo, chiến tranh và hoà bình… Trong lãnh vực nào, Du Tử Lê cũng cống hiến cho đời những cảm xúc chân thực nhất, truyền cảm mạnh mẽ nhất. Nhưng tựu trung trong lãnh vực tình yêu, tôn giáo và định mệnh, Du Tử Lê dừng lại nhiều hơn cả và cũng phơi tim vắt óc không ngừng nghỉ.
Do tâm thức nhậy cảm và cởi mở, nên khi diễn tả một ý tưởng nào trong lãnh vực kể trên, Du Tử Lê không bị gò bó trong một trường phái thơ nào. Lời và ý thơ tuôn trào ra tự nhiên và chất phác tuỳ theo trạng huống tinh thần nên có thể trữ tình, tượng trưng, hiện thực, siêu thực, tự do…Đặc biệt thơ tự do (như một số trong 12 bài thơ mới) thuộc loại thơ-văn-xuôi (poesy-prose) rất thành công do năng khiếu thiên bẩm. Tuỳ bút Du Tử Lê nhiều đoạn rất thơ, tỷ như Anatole France viết đoản văn “Tựu trường” bất tử “…et les feuilles qui jaunissent dans les arbres qui frissonnent…” Và như Du Tử Lê trong trường khúc “Mẹ về biển Đông.”
Để chứng minh cho nhận định trên về hình thức và nội dung thơ Du Tử Lê cũng rõ rệt trong thi phẩm mới này, xin bạn đọc cùng tôi phân tích bài năm chữ đầu tiên rất siêu thực: “Trở giấc cùng hư vô.” Toàn bài thơ như tả lại một giấc mơ, không phải là ác mộng, nhưng là một trạng huống bất thường. “Mưa về ngang ký ức,” một nỗi thất vọng biến thể thành tuyệt vọng. “Những giòng sông bó tay” rồi sự chết xẩy đến như một ao ước giải thoát được thực hiện và đương nhân vui mừng trong “…nấm mồ hớn hở!” - Ở bài thơ kế tiếp “Chưa ai từng có mặt” mặc dù cách dùng chữ bình thường nhưng rất nên thơ, nét hiện thực rõ ràng trong những câu “Thổi tắt niềm ái ngại.” “Ghế thở dài. quay lưng. - Tường phân thân trụ lại.” Và thực tại thật bùi ngùi trong một câu 5 chữ, có đến 4 chữ “…xa. xa. xa. xa” để kết thúc thật nhẫn nhịn, cam đành: “Chưa ai từng có mặt.”
Bài “Bão đi qua bàn tay” là một bài thơ tượng trưng rất đạt. Cái đạt của bài thơ tượng trưng này nằm ở chỗ giản dị và hiển nhiên của hoàn cảnh: Bão tố của một bất hạnh ào tới, người trong cuộc hiển nhiên bất lực, dùng tay chống trả “Ngón be bờ lũ, lụt,” dù biết trước đấy tình đã “suy sụp.”
Những đan cử trên ở một tập thơ có sắc thái mới lạ nhưng còn phảng phất một Du Tử Lê hồn hậu ơn đời, ơn em. Mọi chua sót, đau đớn cay nghiệt…chàng đổ lỗi cho định mệnh trong một tuyên ngôn bao khắp và khoả lấp hết: “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu.”
Bây giờ thì khác. “Năm chữ Du Tử Lê và, 12 bài thơ, mới” mang tính hiện thực, ít nhiều cảm tính, có dấu hiệu phảng phất nhẹ nhàng, hoặc riễu cợt chua cay, hoặc đầy sân hận ở ba lãnh vực thân thiết với chàng: Nhân bản, tình yêu và định mệnh.
Vì giới hạn của bài viết, tôi chỉ xin sơ lược trích dẫn ít hình ảnh trong toàn tập thơ:
-Cổ suý cho nhân bản: (Trang 15) “Chúng ta những đứa trẻ, cần qúa đi tình yêu”; (trang 26) “Tôi được người cứu chuộc, an nhiên trong hồi kinh”; (trang 36) “Đám đông dấu cơn đau – trong tiếng cười quặt quẹo.”
- Phơi bày ác độc, giả đạo đức: (Trang 54) “Nhận mũi đinh tuyệt vọng”; (trang 28) “Gai luỹ thừa vết xước”; (trang 30) “Nuôi tôi lời hứa đối”; (trang 87) “Những ân cần khốn kiếp”; (trang 56) “Niết bàn nanh chó sói”.
-Tố cáo, phản kháng mạnh mẽ nhất ở phần II, trong hai bài đầu: “Khi đón chào năm mới…” (Trang 66) Tình trạng thê thảm bất lực của dân Việt, bất lực của tôn giáo trước định mệnh. Bài kế tiếp “Bài vỡ lòng, thế kỷ 21” (trang 70): hành động hạ cấp của lớp người vô tư cách, bị vô hiệu hoá bởi lương tâm nhân loại và thiên lý vạn năng.
Để kết luận, tôi chỉ muốn nói: Phơi bày, cảnh báo, phản kháng, âu cũng là một điểm son của chuyển hướng mới thơ Du Tử Lê.

Lê Vương Ngọc
 
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 94559)
“Nước là một trong những cơ hội lớn về ngoại giao và phát triển trong thời đại chúng ta. Không phải mỗi ngày chúng ta tìm được một vấn đề mà hiệu quả về ngoại giao và phát triển giúp cứu sống hàng triệu sinh mạng, cứu đói, tăng sức mạnh phụ nữ...Nước chính là chủ đề quan trọng đó.” Hillary Rodham Clinton, World Water Day 2010.
27 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 100652)
“ B ây giờ tôi mới hiểu: thì ra con người đối với Hồ Chí Minh chẳng là cái gì. Ông mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới, sao vàng năm cánh mộng hồn quanh. Con rồng, ai cũng biết, là biểu tượng của nhà vua. Ông mơ cưỡi nó thì ông đâu phải là một người trong chúng ta.[...] Con người là vốn quý nhất , tôi từng nghe ông nói với mọi người trong lần gặp anh hùng La Văn Cầu ở Thác Dẫng, mùa thu năm 1950. Stalin cũng nói thế. Mao Trạch-đông cũng nói thế.Mà đúng: con người chỉ là vốn thôi, để kinh doanh cái gì đó. Khi là vốn, nó thôi là Người ,” (Vũ Thư Hiên)
27 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 130044)
C ó bữa niềm vui chui qua cái trôn kim Gõ cửa và nói Đã đến giờ thay ca! Nhưng tôi từ chối Tôi yêu nỗi buồn của mình Nó nhen lên ngọn lửa Từ tâm từ tâm...
25 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 126845)
l ời đã chết từ khi vượt cạn đi tìm nhau mới biết con đường gần mà lại vòng vèo như ruột non ruột già nên câu thơ có hình đa giác
23 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 126528)
C huyến xe Kinh kỳ đi xuống phía anh phố nguyên từng nắm người nguyên từng gói cười nguyên từng lố khóc nguyên từng chén ô hô...
22 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 103432)
N hà văn Lữ Thị Mai kết duyên cùng .. .
21 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 100105)
Q ua những bài dạy sử địa từ cấp đồng ấu tiểu học của thế kỷ XX-XXI, sách giáo khoa chữ Việt mới (dựa trên chữ cái Latin, tiêu biểu là cuốn bài giảng sử ký và địa dư dùng cho các lớp Dự bị và Sơ đẳng bậc tiểu học của Trần Trọng Kim và Đỗ Đình Phúc xuất bản lần đầu năm 1927) lịch sử Việt Nam khởi từ nhà Hồng Bàng (2879-258 Trước Tây Lịch [TTL] kỷ nguyên), với mười tám [18] vua Hùng hay Hùng vương [Xiong wang].
21 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 94637)
V ới thời gian, làm sao hàn gắn được lòng tin cậy đang bị sứt mẻ, để tiến tới được một Tinh Thần Sông Mekong như một mẫu số chung, nối kết các quốc gia trong vùng. Điều ấy cũng đòi hỏi giới lãnh đạo có tầm nhìn xa, biết hướng tới sự thịnh vượng cho toàn vùng thay vì chỉ thấy mối lợi cục bộ trước mắt nhưng với cái giá lâu dài phải trả của chính mình và của các nước lân bang.
21 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 100279)
K hi tầu đi ngang qua tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi thấy ngài vẫn đứng uy nghiêm, tay cầm kiếm chỉ xuống dòng sông. Tôi chợt nhớ đến lời nguyền của ngài “Nếu không thắng giặc Nguyên, ta sẽ không trở về con sông này nữa”. Bất giác, tôi tự nói thầm nếu không tìm được Tự Do, chắc mình cũng không thể trở lại được con sông này.
21 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 102938)
“Xin đừng gọi tôi là nhiếp ảnh gia chiến trường, tôi chỉ là một nhiếp ảnh gia mà thôi." Đó là lời của Don McCullin, một nhiếp ảnh gia người Anh được coi là cây đại thụ trong làng nhiếp ảnh Anh quốc, với hơn 50 kinh nghiệm chụp ảnh các cuộc chiến từ Berlin, Việt Nam, Campuchia, đến Bangladesh và Trung Đông.