- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

THÁI ĐỘ CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ ĐỐI VỚI VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN QUA CÁC SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA ÔNG

12 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 93969)

nguyencongtru_hl105

LTS: Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) là một trong những nhân vật thành danh dưới triều Nguyễn (1802-1945). Thuở thanh niên, đường khoa cử lận đận, mãi tới ngoài 40 tuổi mới đậu Cử nhân. Tuy nhiên, nhờ lập được nhiều chiến công dưới triều Minh Mạng (1820-1841) và Thiệu Trị (1841-1847), ông từng lên tới chức Tổng đốc, và giúp mở mang vùng Kim Sơn, Tiền Hải (Thái Bình), và phụ tá cho Trương Minh Giảng trong cuộc phản công cuối cùng của quân Nguyễn trên đất Kampuchea và Gia Định thành. Ông cũng để lại nhiều thơ phú, từng được dùng giảng dạy trong chương trình Việt văn Trung học ở miền Nam trước năm 1975.

TCHL xin giới thiệu một biên khảo mới của GS. Nguyễn Phạm Hùng tại Đại học Quốc gia Hà Nội về Nguyễn Công Trứ, dưới mắt nhìn mới, khác biệt với thành kiến bấy lâu.

 

Tạp Chí Hợp Lưu

 

 

Đọc các nghiên cứu về thơ văn Nguyễn Công Trứ, dễ dàng bắt gặp nhiều nhận định, đánh giá không khỏi khiến chúng ta phải suy nghĩ lại một cách nghiêm túc. Ví như một nhận xét sau đây khi cho rằng Nguyễn Công Trứ “ghê tởm cái xã hội phong kiến đầy gian dối, lọc lừa, đổi trắng thay đen; biết mình đi nhầm đường mà không tìm được lối thoát, đành tỏ ra bằng một thái độ khinh bạc ngạo mạn, thách thức công nhiên mọi thứ dư luận!”[ 1]. Phải chăng cái xã hội phong kiến triều Nguyễn lúc đó, trong thời kỳ được xem là “vàng son” nhất của nó, là một xã hội “đầy gian dối, lọc lừa, đổi trắng thay đen”? Phải chăng nhà Nho phong kiến Nguyễn Công Trứ “đi nhầm đường”? Mà nếu “đi đúng đường” thì ông sẽ đi đâu? Hay cho rằng: “Do quá trình tham gia hoạt động xã hội, Nguyễn Công Trứ nhận thức ra được triều đại ông tôn thờ không phải tốt đẹp như ông tưởng và những thiện chí của ông không phải dễ thực hiện.... Ông từ bỏ dần những đề tài có tính chất ngợi ca, khẳng định, để viết những đề tài có màu sắc tố cáo, đả kích xã hội...”[2]. Vậy cái triều đại tốt đẹp mà ông nhẽ ra tôn thờ là cái triều đại như thế nào nếu không phải là cái triều đại ông đã gắn bó với nó tới 40 năm? Vì sao ông lại có thể “nhầm lẫn” một cách “dai dẳng” như thế? “Và những thiện chí” nào “của ông không phải dễ thực hiện”? Hoặc cho rằng “đi đánh giặc, lên ở chùa, ông cũng mang ả đào đi theo.... Ông vui với ả đào cũng chính để cho các vị thiên tử nhà Nguyễn thấy rõ ông đã chán ghét chế độ của họ đối với kẻ sĩ như thế nào rồi...” “...Hay nhất và cũng làm cho triều đình nhà Nguyễn sợ ông nhiều nhất là các bài ông nói lên niềm chán chường và khinh ghét cái tâm địa phản phúc, xấu xa của chúng...”[ 3]... Nếu “vui với ả đào” là để thể hiện sự khinh ghét chế độ thì có lẽ triều Nguyễn không hẳn đã là một triều đại đáng ghét nhất (!!!).Càng dễ quy chụp bao nhiêu thì cũng càng khó chứng minh bấy nhiêu cho sự “chán ghét chế độ” của ông, hay sự “khinh ghét cái tâm địa xấu xa phản phúc” của triều Nguyễn. Có thể kể ra đây nhiều nhận định tương tự như thế về thái độ của Nguyễn Công Trứ đối với chế độ phong kiến triều Nguyễn trong các sách vở hiện nay như: “Ông vạch tội bọn triều Nguyễn từ vua đến đại thần đều hôn ám, hèn nhát không khác chi vua quan nước Sở xa xưa tận bên Trung Quốc”[4]. “Trước kia hăng hái nhiệt tình vì Nguyễn Công Trứ tưởng chính quyền đương thời là một chính quyền lý tưởng để mình tôn thờ. Bây giờ thực chất phản động của nó không che giấu được ai... Ông thấy triều đình thối nát, quan lại xấu xa...”[ 5]. “Thế nhưng bằng những hình ảnh tượng trưng, ẩn dụ... ông đã nhằm thẳng vào triều đình nhà Nguyễn mà chỉ trích hàng ngũ quan lại bất tài, vô dụng và nhà vua dùng người mù quáng...”[ 6].v.v... Dường như đấy không phải là những phát ngôn của chính Nguyễn Công Trứ mà chỉ là những phát ngôn của chúng ta được gán cho Nguyễn Công Trứ. Chúng ta không phủ nhận những thất vọng nhất định của Nguyễn Công Trứ đối với xã hội đương thời, nhưng có lẽ chúng ta cũng rất cần được nghe đúng “tiếng nói” của ông, để hiểu đúng tình cảm, tâm trạng, thái độ của ông đối với triều Nguyễn, từ đó mới có thể nhìn nhận triều Nguyễn bớt khắc nghiệt hơn, nhất là phải trung thực và khách quan hơn.

Những nhận định trên rõ ràng khẳng định rằng thái độ của Nguyễn Công Trứ là hoàn toàn đối lập, là mang tính phủ định quyết liệt đối với chế độ phong kiến nói chung, đối với triều Nguyễn nói riêng. Phải chăng trong con mắt của Nguyễn Công Trứ, triều Nguyễn xấu xa, tráo trở và độc ác đến thế? Phải chăng chế độ phong kiến thời kỳ này đen tối đến thế, khiến ông phải quyết tâm rời bỏ nó, phải quay lưng lại với nó, phải phủ nhận nó? Phải chăng tất cả những biểu hiện bằng nghệ thuật cái thế giới quan và thái độ của Nguyễn Công Trứ đối với triều đình, từ thái độ phụng sự nhiệt thành chế độ, đến thái độ “lánh đời”, hay cả những thói kiêu ngông, ngất ngưởng lẫn thú hưởng lạc cùng những “thói trăng hoa” của ông đều xuất phát từ sự phản ứng lại những xấu xa của chế độ phong kiến và triều đình nhà Nguyễn?

Nếu nhìn vào thực tế lịch sử, nhìn vào chính cuộc đời của Nguyễn Công Trứ và nhìn vào thơ văn của ông, thì những điều nhận xét, đánh giá nói trên là hoàn toàn không chính xác. Hãy theo dõi một đoạn rất ngắn “niên biểu” Nguyễn Công Trứ, chúng ta có thể thấy rõ, Nguyễn Công Trứ chính là con đẻ, là sản phẩm của chế độ đó, của vương triều đó, và gắn bó máu thịt với nó. Sự thành công hay thất bại của cuộc đời ông đều gắn bó máu thịt với thời kỳ sung mãn nhất của vương triều Nguyễn, nếu tính từ khi ông thi đỗ Tú tài năm 1813, nhất là 40 năm kể từ năm 1819 ông đậu giải nguyên cho đến khi ông mất chính vào năm thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta 1858. Đúng là cuộc đời ông có “lên voi xuống chó”. Nhưng “lên voi” là chính: Năm 1819, đỗ giải nguyên, năm 1820 được bổ dụng chức hành tẩu ở Quốc sử quán; năm 1821 làm Sơ khảo trường Thừa Thiên, phúc khảo trường Sơn Nam; năm 1823 làm Tri huyện Đường hào (Hải Dương); năm 1824 thăng Lang trung bộ Lại, bổ Tư nghiệp quốc tử giám; năm 1827 thăng Thị lang bộ Hình; năm 1828 thăng Hữu tham tri bộ Hình; năm 1932 thăng Lang trung bộ Hộ; năm 1840 thăng Tả đô Ngự sử Viện Đô sát; năm 1843 thăng Tham tri bộ Binh; năm 1845 thăng Chủ sự bộ Hình; năm 1847 thăng Phủ doãn Thừa Thiên... Còn việc “xuống chó” của ông đâu phải chỉ là do chế độ phong kiến, do triều đình nhà Nguyễn xấu xa ghét bỏ người tài, mà chủ yếu là do sự tỵ hiềm, ganh ghét, hãm hại của người đời, do “thói đời” đen bạc, và một phần quan trọng là do chính ông gây nên. Thiết tưởng, đó cũng là một điều dễ hiểu đối với một con người có tài năng, khí chất và tính cách như Nguyễn Công Trứ, mà chưa chắc triều Nguyễn đã là một vương triều xử “nặng tay” nhất. “Niên biểu” Nguyễn Công Trứ cho chúng ta thấy rất rõ điều này: Năm 1831 ông bị buộc tội vượt quyền vì đề cử một viên đội trưởng làm huyện thừa huyện Tiền Hải; năm 1834 bị khiển trách vì hành quân chậm; năm 1836 ông bị giáng cấp vì để tù vượt ngục trốn mất; năm 1841 ông bị giam và giáng cấp vì không thi hành chỉ dụ của triều đình; năm 1843 ông bị cách chức do bị vụ cáo là cho thuyền đi buôn lậu; năm 1852 ông bị triều đình đòi về kinh xét hỏi vì bị vu cáo cầm đầu nhân dân hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải làm phản.... Việc “xuống chó” của Nguyễn Công Trứ chẳng những khó có thể dùng để kết tội triều Nguyễn mà có khi lại còn giúp cho chúng ta biết thêm được một số “ưu điểm” của triều Nguyễn như tính chất nghiêm minh và phân minh trong việc xét công định tội, có cả thái độ ít nhiều “thương người tiếc tài” khi cất nhắc cả những người có “vấn đề lý lịch” hay “tiền án, tiền sự” nhưng thực tài và thành tâm như Nguyễn Công Trứ... điều mà ngay cho đến hôm nay trong xã hội chúng ta vẫn không ít nhà cầm quyền cấn cái. Về mặt này, rõ ràng chẳng những khó phê phán, mà lại có khi còn phải khen ngợi triều Nguyễn. Nhìn vào con đường hoạn lộ của Nguyễn Công Trứ, thấy việc thưởng phạt của triều Nguyễn hoàn toàn không phải vì “nhà vua dùng người mù quáng”, “hôn ám, hèn nhát”, “tâm địa phản phúc, xấu xa”, mà trái lại, rất có căn cứ, có lý có tình, không cố chấp, khiến cho chính Nguyễn Công Trứ cũng phải “tâm phục, khẩu phục”, nên càng tận lực với triều đình. Vì vậy, ông không oán trách triều đình nhà Nguyễn mà chỉ oán trách những kẻ ghen ghét, vu oan giá hoạ cho ông.

Những điều nói trên chúng ta có thể dễ dàng thấy được bằng những chứng cớ lịch sử, bằng những xuy xét lý tính. Nhưng để thấy rõ hơn vấn đề này, chúng tôi muốn tìm hiểu thái độ thẩm mĩ của Nguyễn Công Trứ đối với chế độ phong kiến nói chung, đối với triều Nguyễn nói riêng, thông qua các sáng tác văn học của ông. Bởi vì, tác phẩm văn học bao giờ cũng là sự thể hiện sinh động và chân thực nhất các cung bậc tâm trạng, tình cảm của nhà văn đối với hiện thực cuộc sống. Nó giúp cho chúng ta có thể thấy được cái tình cảm chân thực của ông đối với triều Nguyễn, đối với chế độ phong kiến như thế nào.

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Trứ chủ yếu diễn ra trong hai thời kỳ, thứ nhất là thời kỳ chưa đỗ đạt với giấc mộng công danh cháy bỏng, và thứ hai là thời kỳ làm quan dưới triều Nguyễn với rất nhiều thăng trầm, sướng khổ, được thể hiện ra bằng hai nguồn cảm hứng sáng tác chủ đạo sau:

 

1. Những khát vọng công danh, ý thức phụng sự triều đình vô điều kiện của chàng “bạch diện thư sinh”

Đọc thơ văn của Nguyễn Công Trứ làm trong thời kỳ “bạch diện thư sinh”, ta thấy, cảm hứng chính là sự tự tin vào khả năng và chí hướng của mình, là khao khát cháy bỏng được thi đỗ, được làm quan, được thoả chí “tang bồng hồ thỉ”, được phụng sự nhà vua và triều đình, được cống hiến tài năng, sức lực cho dân cho nước. Trong cảnh nghèo của nhà nho chưa thành đạt, ông vẫn rất ung dung, tự tin rồi một ngày kia sẽ thay đổi, và triều đình không phụ công ông. Trong bài Hàn nho phong vị phú, ông viết:

Cùng con cháu, thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu “lạc đạo vong bần”

Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ “vi nhân bất phú”...

Tiếc tài cả phải phản ngưu bạn trúc, dầu xưa ông Phó ông Huề

Cần nghiệp nho khi tác bích tụ huynh, thuở trước chàng Khuông chàng Võ

Nơi thành hạ gieo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm

Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương Võ...

Trong bài Vô cầu, ông tự an ủi mình phải vững tin vào tài năng của mình, phải lạc quan chờ đợi thành công:

Phận tài hoa đành có lúc vẻ vang

Đường khoa mục xa nhau đà mấy bước

Sóng Vũ lớp sau như lớp trước

Chí vẫy vùng ai có kém ai đâu

Thảnh thơi thơ túi rượu bầu

Trần ai ai biết công hầu là ai

Bao giờ rõ mặt mới hay

Cũng có lúc ông cảm thấy hoang mang, dao động, bởi những cố gắng chưa thành. Nhưng vượt lên trên tất cả, vẫn là một tinh thần lạc quan tin tưởng, một ý chí vươn lên không ngừng. Những lời thơ tự động viên của ông cho ta thấy cái quyết tâm rất cao, cái lòng tin rất lớn vào triều đình và nhà vua của người học trò nghèo này:

Đã từng tắm gội ơn mưa móc

Cũng phải xênh xang hội gió mây

Hãy quyết phen này xem thử đã

Song còn tuổi trẻ chịu đâu ngay

(Tự thuật II)

Đây là thời kỳ ông làm nhiều thơ về đề tài công danh, thi cử, ngầm bày tỏ chí nam nhi dù trong cảnh khốn cùng vẫn không nguôi khát vọng được đền ơn vua, trả nợ nước. Chữ công danh được ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần, như một điệp khúc giúp giải toả ẩn ức đè nặng lòng ông. Nó khiến ông trở thành một nhà thơ nói nhiều nhất đến nợ công danh, đến chữ công danh trong văn học cổ Việt Nam. Vì thế, nói đến thơ ông, người ta thường nhắc đến những câu thơ hay nhất về nợ CÔNG DANH của người trí thức phong kiến:

Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông

Trong cuộc trần ai ai dễ biết

Rồi ra mới biết mặt anh hùng

(Đi thi tự vịnh)

Phải có danh mà đối với non sông

Đi không chẳng lẽ về không?

(Chí nam nhi)

Đã sinh ra ở trong phù thế

Nợ trần ai đành cũng tính xong

(Đường công danh)

Nợ trần hoàn quyết trả lúc này xong

Dồi dào thiên tứ vạn chung

Khanh hầu xa mã tướng công lâu dài

Trần ai ai dễ biết ai

(Nợ công danh)

Đó là những tâm sự thường trực trong lòng Nguyễn Công Trứ. Dường như ông không nghĩ gì nhiều ngoài việc phải làm sao thoả được nguyện ước công danh. Những bài thơ mang tâm sự khác, ví dụ như bài thơ Vịnh thế thái nhân tình được làm trong thời kỳ này, nhưng cũng chỉ như một nét buồn thoáng qua không che lấp được cái tinh thần phơi phới của chàng “bạch diện thư sinh” rất hăng hái trên đường sĩ hoạn:

Thế thái nhân tình gớm chết thay

Lạt nồng, trông chiếc túi vơi đầy

Hễ không đều lợi, khôn thành dại

Đã có đồng tiền, dở cũng hay

Khôn khéo, chẳng qua ba tấc lưỡi

Hẳn hoi, không hết một bàn tay

Suy ra cho kỹ chi hơn nữa

Bạc quá vôi mà mỏng quá mây

Đúng là một nét buồn chán, nhưng của một Nguyễn Công Trứ tràn trề nhiệt huyết trên đường lập công danh. Đó cũng là điều dễ hiểu. Cái thói đời ấy, cái nhân tình thế thái ấy đâu chỉ là điều thường thấy dưới chế độ phong kiến, dưới triều Nguyễn. Có điều, đó không phải là sự quan tâm chính của chàng trai Nguyễn Công Trứ. Và nó cũng chưa có tác động gì đáng kể tới một con người “tay trắng” như ông.

 

2. Những thăng trầm trong “hoạn hải ba đào” và một lòng trung quân không hề thay đổi

Những tác phẩm làm trong thời kỳ Nguyễn Công Trứ đỗ đạt, làm quan được xem là bộ phận mang nhiều ý nghĩa nhất trong sáng tác của ông. Nhìn diễn tiến của dòng tâm trạng trữ tình trong thơ ông thời kỳ này, chúng ta thấy có một tinh thần QUYẾT TÂM rất cao:

Sắp hai chữ quân thân mà gánh vác

Không công danh thời nát với cỏ cây

Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây

Phải hăm hở ra tài kinh tế

(Gánh trung hiếu)

Trót đem thân thế hẹn tang bồng

Xếp bút nghiên theo nghiệp kiếm cung

Hết hai chữ trung trinh báo quốc...

(Nợ nam nhi)

Chúng ta cũng thấy có một tâm trạng THOẢ MÃN tột độ:

Miền hương đảng đã khen là hiếu đễ

Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường

Khí hạo nhiên chí đại chí cương

So chính khí đã đầy trong trời đất

(Luận kẻ sĩ)

Thậm chí chúng ta thấy có cả sự TỰ MÃN không hề giấu giếm:

Đường mây rộng thênh thênh cử bộ

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo

Thảnh thơi thi thập rượu bầu.

(Chí khí anh hùng)

Nhưng như một quy luật, một tất yếu, con đường hoạn lộ đầy rẫy chông gai không phải lúc nào cũng chiều chuộng bất kỳ kẻ sĩ nào, đâu chỉ riêng ông. Và dần dần chúng ta bắt đầu thấy ngày một lộ rõ thái độ BẤT MÃN, chán nản trong thơ ông:

Ra trường danh lợi vinh liền nhục

Vào cuộc trần ai khóc lộn cười

(Tình cảnh làm quan)

Cũng giống như nhiều Nho sĩ trí thức nổi tiếng trước đây và đương thời về lẽ “xuất xử”, khi bất lực trước thế cuộc thường theo phương châm sống “độc thiện kì thân”, “nhàn ẩn”, thơ ông càng về sau càng hướng về chữ NHÀN cố hữu như bao người rơi vào hoàn cảnh thất cơ lỡ vận. Đó là một điều dường như là tất yếu đã từng xảy ra cũng đâu chỉ với riêng ông:

Chen chúc lợi danh đà chán ngắt

Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao

Đám phồn hoa trót bước chân vào

Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết

(Thoát vòng danh lợi)

Nhưng nguyên nhân của tâm trạng, của thái độ, của tình cảm đó hoàn toàn không phải là vì Nguyễn Công Trứ “ghê tởm cái xã hội phong kiến đầy gian dối, lọc lừa, đổi trắng thay đen; biết mình đi nhầm đường mà không tìm được lối thoát”, hay do “Nguyễn Công Trứ nhận thức ra được triều đại ông tôn thờ không phải tốt đẹp như ông tưởng”, do “ông đã chán ghét chế độ của họ đối với kẻ sĩ...”, “...ông nói lên niềm chán chường và khinh ghét cái tâm địa phản phúc, xấu xa của chúng...”.... như đã nói ở trên.

Cũng giống như Nguyễn Trãi xưa kia:

Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết

Bui một lòng người cực hiểm thay

(Quốc âm thi tập, bài 26)

Cũng giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm khi xưa:

Thế gian biến cải vũng nên doi

Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi...

(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 71)

Nguyễn Công Trứ cũng nói tới một “thói đời” có sức mạnh tàn huỷ con người của mọi thời đại một cách ghê gớm. Ông nói tới cái “sự đời”, “thói đời”, “nhân tình thế thái” đổi trắng thay đen của lòng người, chứ không phải của chế độ phong kiến, của vua chúa nhà Nguyễn đối với ông:

Ăn ở sao cho trải sự đời

Vừa lòng cũng khó, há rằng chơi

(Cách ở đời)

Những nghĩ xa gần khéo gớm thay

Sự đời tráo trở giống bàn tay

(Vịnh sự đời)

Chẳng ưa, thoắt chốc ra hờn mát

Không luỵ, càng nhiều tiếng nói xăm...

(Trách đời)

Những điều tráo trở đã xem từng

Song rút dây kia sợ động rừng

Người thế, những tuồng trông trước mắt

Ở đời, mấy kẻ ngắm sau lưng...

(Trách người đời)

Quản bao miệng thế lời khôn dại

Dại trước khôn thời để lại sau

(Cảnh ở đời)

Vì chữ “thời” nên phải chịu luồn

Những xem nông nỗi khéo mà buồn

(Thói đời)

Gớm chết nhân tình thế thái

Lạt nồng coi chiếc túi đầy vơi

(Nhân tình thế thái)

Ông chẳng những ghê sợ, mà còn căm ghét những “thế tình” ấy đến mức phải chửi đổng, phải văng tục, thì ta biết lòng ông đau đớn, tức tối đến mức nào:

Đéo mẹ nhân tình đã biết rồi

Lạt như nước ốc, bạc như vôi

(Thế tình bạc bẽo)

Đấy quyết không thể là lời chửi rủa chế độ và triều đình. Những dòng tâm trạng trữ tình này chỉ có thể dẫn chúng ta liên hệ tới những “sự cố” trong cuộc đời làm quan của ông, nhất là đến những chuyện “thị phi”, chuyện ông bị “vu oan giá hoạ”, bị dèm pha, ghen ghét để đến nỗi phải chịu bao cảnh “lên voi xuống chó”. Cái tình cảnh đau thương mà ông phải gánh chịu phần lớn là do thói đời bạc bẽo, do nhân tình thế thái đen bạc, nhưng một phần là do chính những cái “tật” của kẻ lắm “tài” như ông, do thói ngông nghênh kiêu bạc của ông.

Nguyễn Công Trứ nổi tiếng là người tự mãn, kiêu ngông, ngất ngưởng... Nhưng ông là một trong những người khao khát làm quan nhất trong chế độ phong kiến Việt Nam. Cuối cùng chỉ vì tuổi già sức yếu chứ không hẳn là vì ông không thắng nổi cái “thói đời” của chốn quan trường ông mới chịu lui về sau gần 30 năm “hoạn hải ba đào”. Một sự kiên trì gắn bó hiếm có như thế không thể có cách giải thích nào khác hơn ngoài sự trung thành tuyệt đối với triều đình nhà Nguyễn, với chế độ phong kiến. Cuối cùng, dù rất muộn, ông cũng “thoát vòng danh lợi”. Nhưng ngay cả khi đã “cáo lão hồi hưu”, lòng trung thành với triều đình của ông không hề thuyên giảm, dù một vài giai thoại mang “tính nhân dân” thêu dệt ông như một kẻ bất mãn với triều đình, cũng không xoá bỏ được sự thật ấy. Chứng cớ là khi thực dân Pháp xâm lược nước ta năm 1858, khi ông đã 80 tuổi, “các quan trong triều dâng sớ xin cử ông ra cầm quân chống cự. Ông trả lời: “Dù tôi như cái màn, cái lọng rách cũng không dám từ nan. Còn hơi thở nào xin lên đường ngay”[7]. Tiếc rằng chưa kịp thực hiện chí anh hùng ấy, ông đã vội ra đi vào cuối năm này. Một sự trung thành, tận lực hiếm có như thế không thể có cách giải thích nào khác hơn ngoài sự gắn bó máu thịt của ông với triều đình nhà Nguyễn, với chế độ phong kiến. Nếu không vì tuổi già sức yếu, chứ không hẳn vì những “thói đời” dù rất đáng căm ghét mà ông cũng đã nhiều lần vượt qua ấy, chưa biết chừng ông còn phụng sự triều Nguyễn bao nhiêu năm nữa?

Chúng ta thấy có lúc ông hô hào hưởng lạc, phó mặc trời đất. Có lúc ông mang tư tưởng hư vô... Nhưng không thể nói cuộc đời ông là thất bại. Dù đã trải đủ ngọt bùi cay đắng của “hoạn hải ba đào”, nhưng ta thấy, cả cuộc đời ông, suốt trên 40 năm gắn bó với nợ công danh, là một cuộc đời sôi nổi hiếm thấy, một cuộc đời thành công hiếm thấy của người trí thức xuất thân bình dân và nghèo khó dưới chế độ phong kiến. Hầu như ông đã được thi thố hết các tài năng của mình. Hầu như ông đã được sống hết mình và theo ý mình một cách tối đa trong những điều kiện cho phép. Hiếm có người trí thức bình dân nào được thoả mãn bằng ông trong cả nghìn năm phong kiến.

Vì thế mà khó có thể nói rằng ông là người mang tư tưởng phủ nhận chế độ phong kiến, phủ nhận triều Nguyễn. Bằng cả cuộc đời mình, ông đã tận lực với triều đình. Dù có thể có khi nào đó ông bất lực trong hành đạo, nhưng nhìn chung lý tưởng của ông đã được thực hiện. Nhà thơ sống cùng thời với ông là Phạm Văn Nghị (1805 – 1880) từng ca ngợi Nguyễn Công Trứ, cũng là ngầm ca tụng cái sự “gặp thời” đó của ông:

Đỏ xanh dấu cũ, mũ lọng triều xưa,

Bút cự nho xông thẳng trường văn, ba nghìn sĩ tử chịu co tay, tên đỏ chói đứng đầu bảng hổ;

Cớ đại tướng trổ ngang ngọn giáo, trăm vạn hùng cừ đều khiếp tiếng, bể trong veo lặng ngắt tăm kình.

Phá toang bãi cỏ lập làng dân, chẳng quản chân tay bùn lấm;

Tát sạch đồng chua làm ruộng tốt, khác nào trời đất chuyển vần.

Hoàn danh hoàn phúc gồm hai, công đức rỡ ràng bốn cõi,

Danh tướng danh thần làm một, linh thanh sực nức nghìn thu[10]

Có thể còn nhiều điều Nguyễn Công Trứ chưa làm được. Có thể còn những hoài bão của Nguyễn Công Trứ chưa thành hiện thực. Nhưng về cơ bản, ông đã thoả mãn khát vọng của mình. Cuộc đời ông, sự nghiệp ông có thể được xem là viên mãn. Vì thế mà ta thấy thơ văn ông về cuối đời nghe có vẻ ngông nghênh bất cần đời, nhưng âm điệu lại hết sức du dương, trong trẻo, đầy bỡn cợt và tự tin của tâm hồn một con người thoả mãn và luôn làm chủ được hoàn cảnh. Một người viết câu đối tự tổng kết cuộc đời mình với giọng trào tiếu như sau thì chỉ có thể là một người rất thoả mãn mà thôi:

Cũng may thay, công đăng hoả có là bao, theo đòi nhờ phận lại nhờ duyên, quan trong năm bảy thứ, quan ngoài tám chín phen, nào cờ nào quạt, nào mão nào đai, nào hèo hoa gươm bạc, nào võng tía dù xanh, mặt tài tình trong hội kiếm cung, khắp trời nam bể bắc cũng tung hoành, mùi thế trải qua ngần ấy đủ.

Thôi quyết hẳn, cuộc phong trần chi nữa tá, ngất ngưởng chẳng tiên mà chẳng tục, hầu gái một vài cô, hầu trai dăm bảy cậu, này cờ này kiệu, này rượu này thơ, này đàn ngọt hát hay, này chè chuyên chén mẫu, tay thao lược ngoài vòng cương toả, lấy gió mát trăng trong làm tri thức, tuổi trời ít nữa ấy là hơn.

Một người đã vượt lên trên mọi thói thường, mọi sự đàm tiếu, mọi dư luận, tự nhận mình là “ông ngất ngưởng” như Nguyễn Công Trứ, quyết không thể là người hận triều đình hay cay cú với chế độ:

Được mất đương dương người tái thượng

Khen chê phới phới ngọn đông phong

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

Không Phật, không Tiên, không vướng tục...

Với ông, trước sau ông hết lòng phụng sự chế độ phong kiến, phụng sự triều đình nhà Nguyễn. Đó là niềm vui, là lẽ sống, là lý tưởng của ông. Và chỉ với triều Nguyễn, ông mới thực là ông, một kẻ được thoả chí “tang bồng, hồ thỉ”. Thử hỏi trong thời đại nào mà một người trí thức bình dân, nghèo khó, dù đỗ đạt rất muộn vẫn có thể “hoàn danh hoàn phúc gồm hai”, “danh tướng danh thần làm một” được như ông, mà vẫn kiêu ngông ngất ngưởng bậc nhất trên đời? Chỉ với triều Nguyễn, ông mới có được những thành công như ông mong muốn. Và chỉ có triều Nguyễn mới có thể dung nạp được một con người như ông. Không trọng tài năng của ông, sao triều Nguyễn có thể “chiều chuộng” ông như thế, sao có thể cho một kẻ đã từng bao lần “xuống chó” lại có được lắm cơ hội “lên voi” như ông, sao có thể khiến ông, một người rất mực ngông nghênh kiêu bạc, mà lại vẫn rất mực chung thuỷ với nhà vua, với triều đình, như chính ông hằng tự nhủ trong một bài ca được xem là hay nhất của ông:

Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung (Bài ca ngất ngưởng)[9]

Qua cuộc đời Nguyễn Công Trứ, đặc biệt qua tâm trạng trữ tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ, chúng ta có thể thấy thái độ thẩm mĩ của ông đối với vương triều Nguyễn không phải là một thái độ phủ nhận cực đoan như lâu nay nhiều người nhầm tưởng, lại càng không thể là sự “chán ghét chế độ”, sự “khinh ghét cái tâm địa xấu xa phản phúc” của vua chúa triều Nguyễn, mà trái lại, hết mực gắn bó, tận tuỵ, trân trọng, trung thành. Thái độ thẩm mĩ của Nguyễn Công Trứ đối với vương triều Nguyễn thiên về khẳng định chứ không phải phủ định. Hiểu đúng tâm trạng của một người trong cuộc như Nguyễn Công Trứ, chúng ta chẳng những hiểu đúng thơ văn của ông hơn, mà còn có thể hiểu đúng triều Nguyễn hơn, để có một thái độ đánh giá khách quan hơn, bớt áp đặt hơn đối với triều Nguyễn. Với những gì Nguyễn Công Trứ thể hiện, triều Nguyễn chẳng những không chỉ toàn những xấu xa, đen tối, mà còn có nhiều mặt tích cực rất đáng được nhìn nhận, được nghiên cứu nghiêm túc, như ở cách dùng người, kể cả đối với những người “lắm tài nhiều tật” như Nguyễn Công Trứ mà không phải ở thời nào cũng được trọng dụng như thế, cũng được thoả mãn chí hướng, khát vọng, lý tưởng của mình như thế.

Nguyễn Phạm Hùng

Đại học Quốc gia Hà Nội

Chú thích

 

[1] Trương Chính: Lời giới thiệu. Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Nxb Văn học, H. 1983, tr. 39.

[2] Nguyễn Lộc: Mục từ Nguyễn Công Trứ, trong Từ điển văn học, T. II, Nxb Khoa học xã hội, H. 1984, tr. 53.

[3] Ngô Linh Ngọc, Ngô Văn Phú: Lời giới thiệu. Tuyển tập thơ ca trù. Nxb Văn học, H. 1987.

[4] Đặng Thanh Lê (Chủ biên): Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX. Nxb Giáo dục, H. 1990, tr. 226.

[5] Nguyễn Lộc: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX. , Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp, H. 1978, tr. 330.

[6] Nguyễn Đăng Na (Chủ biên) Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, H. 2007, tr. 243. (Những in nghiêng trong các trích dẫn trên đây là của người viết bài này. Chúng tôi nhắc tới các ý kiến trên trong bài viết không nhằm phê phán mà chỉ là cơ sở cho việc nhận thức lại thái độ thẩm mĩ của Nguyễn Công Trứ trên tinh thần cảm thông, chia sẻ khi nhìn nhận lại vấn đề theo quan điểm lịch sử cụ thể).

[7] Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Trương Chính tuyển chọn, giới thiệu, Nxb Văn học, H. 1983, tr. 160.

[8] Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Sđd, tr. 185.

[9] Các trích dẫn thơ văn lấy từ Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Sđd .

 

 

 

 



Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Tư 20241:51 SA(Xem: 8013)
Vô cùng thương tiếc khi được tin: Nhà văn, Sử gia NGUYÊN VŨ - VŨ NGỰ CHIÊU Sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942, tại Phụng-Viện-Thượng, Bình-Giang, Hải-Dương, VN. Mệnh chung ngày 19 tháng 4 năm 2024 tại Houston, TX Hoa-Kỳ. Hưởng Thọ 82 tuổi
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 13106)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
10 Tháng Mười 20244:15 SA(Xem: 702)
Tôi trở về Half Moon Bay / Đếm từng con sóng biển / Đếm từng nỗi ưu phiền / Lòng buồn như sương mù / Từ độ ánh trăng tan...
05 Tháng Mười 20244:58 CH(Xem: 1712)
NCT sinh năm 1948 tại Vũng Tàu, cha mẹ là người Hà Nội. Từ đầu những năm 1950er NCT lớn lên ở thành phố Sài Gòn, học tiểu học ở trường Bàn Cờ, trung học ở trường Chu Văn An. Năm 1967 ông từ chối những học bổng của những quốc gia khác, chọn học bổng quốc gia (VNCH) để sang CHLB Đức du học. Tại Viện Đại Học Stuttgart NCT học Triết học và Toán Học & Cơ Học Áp Dụng. Vào thời điểm đó những triết gia Đức có tiếng như Martin Heidegger, Karl Jaspers, hay Ernst Bloch đã hưu trí, ông đã làm luận án tiến sĩ ở Viện Cơ Học & Toán Học Áp Dụng. Ông là sinh viên trẻ nhất xưa nay có bằng Tiến Sĩ Kỹ Sư (Doktor-Ingenieur), vào năm 1977.
02 Tháng Mười 20246:16 CH(Xem: 922)
Chủ nghĩa phê bình văn học thời cổ điển ở phương Đông thường diễn ra trong các hình thức: Bình văn, bình thơ và ca xướng hay ngâm vịnh; trong lúc ở phương Tây thì hình thức khá phổ biến là diễn thuyết và tranh luận. Cái hay của văn chương chỉ trụ vào hình thức diễn đạt một phần; nhưng sự tinh túy lại là cái “thần” nằm trong góc khuất của cảm xúc và tư tưởng. Bởi vậy, khi nói đến những trường hợp xướng văn, bình thơ hay phê bình văn học đã có rất nhiều văn nghệ sĩ Đông Tây như Jacques Prévert, Francoise Sagan, Mark Twain… ở trời Tây hay Tô Đông Pha, Bùi Giáng…
02 Tháng Mười 20245:30 CH(Xem: 1128)
Những bài thơ dưới đây được tuyển dịch từ cuốn ”Một Trăm Bài Thơ Nhật” rất nổi tiếng của thi sĩ-dịch giả Mỹ Kenneth Rexroth với thơ của các thi sĩ Nhật qua nhiều thế kỷ. Trong cuốn này, dịch giả Rexroth đã nắm bắt được rất nhiều tích cách tinh tế của thi ca cổ điển Nhật Bản: chiều sâu của niềm đam mê chừng mực, văn phong sang trọng khắc khổ, và hình tượng phong phú nhưng cô đọng. (- Bạt Xứ)
02 Tháng Mười 20245:12 CH(Xem: 685)
Cách nay hơn chục năm, tôi đã viết: Luân Hoán, người kể chuyện bằng thơ. Tuy nhiên, ngay sau đó tôi đã nhận ra, bài viết chưa thực sự mở ra được hồn cốt, kiến thức và khối lượng sáng tác đồ sộ của ông. Vì vậy, hôm rồi, nhận được tập bản thảo: Nỗi Nhớ Quê Nhà Từ Montreal, do Luân Hoán gửi tặng, dù đang rất bận, tôi cũng dành thời gian đọc ngay. Một cảm xúc khác, Luân Hoán đã để lại trong tôi, khi đọc xong tập thơ dày đến 300 trang này. Thật vậy, Nỗi Nhớ Quê Nhà Từ Montreal như một cuốn hồi ký về tình yêu, cuộc sống chìm vào nỗi nhớ quê nhà được Luân Hoán viết bằng thơ: “càng già càng bớt nhớ nhà?/ quẩn quanh nhớ mỗi cái ta thật nhiều/ nhớ từ thời bé hạt tiêu/ phơi nắng giang gió thả diều, đi rông“ (Trí nhớ về chiều)
02 Tháng Mười 20245:02 CH(Xem: 986)
Chồng tôi bị bạo bệnh qua đời được vài năm thì tôi quyết định bán căn nhà cũ và văn phòng địa ốc của anh ấy để dời đi nơi khác, cố quên đi môt dĩ vãng đau thương. Tôi đã quá mệt mỏi với công việc làm ăn mà xưa kia anh ấy luôn gánh vác những phần nặng nhọc nhất. Chồng tôi là một người hiền hòa, hoạt bát rất lo cho vợ con, cho nên sự ra đi của anh ấy đã mang theo không những một chỗ dựa vững chắc cho mẹ con tôi mà cả linh hồn và thể xác của tôi.
02 Tháng Mười 20244:46 CH(Xem: 1133)
Đối với người xa quê, cứ đồng hương là thân nhau rồi, hà huống lại là nhà văn. Thường các nhà văn rất thích gặp nhau, có thể bàn với nhau những dự định sáng tác, động viên nhau khám phá thi pháp mới. Thân hơn nữa, đọc bản thảo của nhau, góp ý để sửa chữa tác phẩm tốt hơn, hay hơn... Tôi viết rất chậm, ba bốn tháng mới viết được một truyện ngắn. Còn Nguyễn Anh thì ngược lại, chỉ vài tháng đã có tiểu thuyết gáy dày như hòn gạch. Bao giờ viết xong anh cũng in ra, đóng thành tập, có bìa giả như một luận văn tiến sĩ, đưa tôi đọc, nhờ góp ý. Tiểu thuyết của anh là loại tình cảm xã hội nên hấp dẫn, tôi đọc một hai bữa là xong mà không thấy quá vất vả. Mới có mấy năm anh đã có hơn năm mươi đầu sách. Tác phẩm ra ào ạt nhưng anh vẫn chưa nổi tiếng trên văn đàn. Trong giới viết lách chẳng mấy người biết đến Nguyễn Anh.
02 Tháng Mười 20244:38 CH(Xem: 1339)
Như tuổi trẻ của chúng ta, hôm nay / Thứ hoàng hôn oằn mình rực rỡ / Đang chìm dần / Khuất vào nơi biển lạnh. / Bình minh rồi sẽ mọc / Nhưng không thuộc về chúng ta.