- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Tháng Ba, Ngó Lại (nhân đọc Tháng Ba Gãy Súng Của Cao Xuân Huy)

25 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 98266)

1

Tháng Ba là một tháng vô duyên trong 12 tháng của một năm. Không lễ hội không sắc màu, tháng Ba chỉ có cái nóng. Mà khi đã ra nước ngoài ngó lại, tháng nào của Việt Nam mà chả nóng.

Vừa nóng vừa mưa, nhưng tháng Sáu có phượng thắm đỏ với những hàng lưu bút xanh dòng trên trang giấy trắng. Mùa hè đến, bao nhiêu là chuyện để làm để chơi. Ghi tên học Toán Lý Hóa Anh văn. Học bơi ở hồ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đến sân Phan Đình Phùng coi bóng rổ học thể dục. Tha hồ mặc áo thung quần jean đi dép da, sơ mi quần tây sa-bô, tạm quên đồng phục trong ba tháng. Sau một ngày vất vả ngược xuôi buôn bán, tối về đạp xe qua nhà bạn tán dóc, mượn truyện về xem. Khi đã vào đại học, tháng Bảy đi xi nê về dưới mưa có nụ hôn ướt át vụng về mà say lòng son trẻ.

Hè chưa kịp nhìn thì đã tựu trường. Xôn xao thời khóa biểu. Lục đục sách giáo khoa, giấy mực dụng cụ học đường. Lồng đèn xanh đỏ Trung Thu cất lúc nào cũng chẳng biết. Rồi là kiểu quần nào mới phim nào hay. Lá me đường Trần Quí Cáp đã xanh ngắt vòm cây sau mùa mưa. Mộng mơ chờ thư bồ gửi đến hộp thơ của trường khi đã vào đại học. Chớp mắt đã thấy mình đi trên đường Lê Lợi tìm mấy cái thiệp Giáng Sinh tí hon tặng bạn bè. Rồi năm mới mơ mộng mới. Khi ngồi cắt râu củ kiệu rửa rổ dưa hành thì Tết như đã qua rồi mà ngày chưa thực đến.

Tháng Ba, có chi để nhớ. Mình nghĩ chỉ ai có sinh nhật trong tháng đó mới nhớ đến tháng Ba. Và một người lính không sinh tháng Ba. Không sinh tháng Ba nên chỉ nhớ một tháng Ba năm ấy. Tháng Ba năm ấy của người lính ấy, ra sao?

 

 

2.

Mười năm sau khi hai chân đã đứng được trên xứ người thì bắt đầu thương nhớ. Nhớ mẹ cha anh chị em bè bạn. Nhớ mái nhà góc bếp hè xưa. Thương thân mình như cọng ngò bị bứt rời góc vườn nhà đem vùi trên xứ lạ. Trong nỗi thương nhớ mình tìm đọc những quyển bút ký chiến trường xưa. Đã thương thân giờ thêm nỗi thương những người lính vô danh đã chết cho mình cho quê hương mà giờ mình mới biết thương tưởng. Rồi là nhận định, phân tích. Rồi là tự bạch tự minh tự nổ tự thuật. Bút ký chiến trường tha hồ được trưng dẫn bán buôn khi tác giả vẫn tù mòn lưng trong hầm kiên giam. Tưng bừng thương nhớ xót xa. Hân hoan đội mũ cho nhau. Sôi sục. Người lính vô danh không có lời. Điên tiết. Và người lính không sinh tháng Ba ấy viết lại tháng Ba của mình. Viết như nhìn lại mình và nói với đồng đội mình những người đã chết, rằng chúng ta không phải là anh hùng nhưng chưa bao giờ hèn, bại chứ không hàng. Viết để nói với mọi người rằng chúng tôi đã chiến đấu như thế đấy, và đã bị bỏ rơi như thế đấy. Vết thương chiến tranh chưa kịp khép đã lại banh ra toác hoác đỏ lòm. Rõ ràng mình là kẻ vô can mà nỗi hận chiến bại sao như quấn ruột. Nhắm mắt lại, tháng Ba vô duyên, tháng Ba năm ấy của người lính ấy, thôi hãy qua đi…

 

 

3.

Hơn ba mươi năm sau, ghé thăm quận Cam tình cờ mà đụng người lính tháng Ba. Quen cũ chiến trường xưa, họ gặp nhau thật hân hoan rộn rã. Diện ăn có đi theo ngồi chung bàn tha hồ mà nghe mà quan sát người của tháng Ba. Mắt đã đục, tóc đã phai thưa, nhưng lưng còn thẳng và giọng cười còn sảng khoái. Bọt bèo đôi chuyện văn chương chữ nghĩa, dóc lác mua vui chuyện thiên hạ sự, và rải rác đó đây những mảnh đời chinh chiến xa mờ. Sao như có gì lấn cấn. Người lính ấy, và tháng Ba năm ấy, ra sao? Cũng tới lúc mình nhìn lại vết thương cũ quên đi giận hờn mà trả nỗi buồn chiến bại về với quá khứ. Rụt rè thong thả, mình dở lại từng trang tháng Ba xưa.

Một trăm ba mươi trang sách nhỏ, cũng không nhiều. Điểm đáng chú ý đầu tiên là khác biệt lớn lao trong giọng văn.

Lời tựa chất chứa những bực bội giận hờn uất ức, giọng văn cay đắng mang chút nghiệt ngã lộ cái thương thân xót đồng đội bỏ mình oan uổng vì những cấp chỉ huy bất xứng và những quyết định vô lý. Trả lời phỏng vấn cuối sách thì có giọng bất cần thách đố, như một quả lựu đạn đã rút chốt sẵn chờ, ai đó rủi ro xấu số mà trúng phải thì đừng than trách. Đầu và cuối sách đầy những cuồng nộ cảm xúc, nhưng những gì kể lại bên trong thì thật giản dị bình lặng. Sự việc được kể thứ tự, đó đây kèm những nhận xét, xúc cảm, suy tư. Không thiếu lời mỉa mai than trách, nhưng mọi thứ đó được viết xuống như một ghi nhận thẳng thắn không cường điệu lên gân. Rất khác biệt, nhưng có lẽ bình thản là điều tác giả đã tự giới hạn mình để đạt mức trung thực tối đa cho những dòng hồi ký với lời khẳng định trách nhiệm. Vẫn là cung cách một quân nhân, một cấp chỉ huy dù thấp nhưng thực thụ và trọn trách nhiệm.

Điểm đáng chú ý thứ hai là cách người ấy kể lại câu chuyện.

Không viết văn chương không làm dáng chữ nghĩa. Chữ giản dị lời ngắn gọn cách kể chuyện thong thả. Không khó đọc nhưng đọc phải suy nghĩ. Viết thong thả đâm ra đọc cũng phải thong thả, không thích chuyện chiến tranh dễ bỏ qua chi tiết. Mà chi tiết là tất cả mà người ấy muốn ta thấy, không đưa ra tình cờ.

Và đứng chỗ nào để kể. Không phải là tự thuật về mình với mọi diễn biến xoay quanh “tôi”, cũng không phải là tường thuật của người đứng đó tai nghe mắt thấy những quyết định những phản ứng những tình huống đã diễn ra quanh mình nhưng không thực sự tham dự. Bút ký này của người trực tiếp tham dự đứng ra ngoài ghi lại. Chút khác biệt đó tạo nên cái vừa sôi động vừa lạnh lùng, đưa ra một góc cận ảnh của bức tranh lịch sử mà tìm trong đó thấy có “tôi”.

 

 

4.

Tháng Ba của người lính ấy thật ra chỉ 11 ngày. Nửa đầu quyển sách là nhật ký hành quân giản lược của 10 ngày, mở ra với vài ngày tiên khởi của một cái vòng luẩn quẩn, tiến dần đến việc từng ngày, rồi từng giờ từng lúc. Cái vòng luẩn quẩn bắt đầu khi đang tự gia hạn phép lại tìm mọi cách trở ra tuyến đầu cùng đồng đội đang đụng trận. Từ nơi tuyến đầu ấy lại cùng đồng đội vượt sống chết để về lại chốn mình vừa từ chối vì không muốn là một người lính hèn. Mười ngày ấy là một đời binh lửa, ghi lại cái chết thật anh hùng mà cũng thật vô danh của đồng đội, cũng là luật chơi của cuộc chiến - không tao thì mày, chúng ta trả giá cho chỗ đứng của mình bằng máu.

Ngày sau cùng, chiếm nửa sau quyển sách, là ngày người lính trưởng thành và tốt nghiệp trường đại học làm người, người trai thời loạn. Cái vòng luẩn quẩn đứt khúc giữa đường, và sau năm năm tù người ấy mới về lại đến nơi đã khởi hành. Một ngày dài như một kiếp người. Bao kiếp người. Người lính người dân bị bỏ lại trên đường tháo chạy như một đống rác khổng lồ.

Năm tháng đã qua, đúng hay sai và chính xác cỡ nào thì đồng đội còn sống có thể xác minh hay bác bỏ. Oan hay ưng, những người được nhắc đến nhiều người vẫn còn đây. Khi vết thương chiến tranh còn nóng hổi thì việc từng ngày từng giờ từng lúc sẽ làm sôi động tâm can và lòng người ta sẽ cảm xúc theo từng cái hoang mang thê thảm của đoạn đường tháo chạy ấy. Nhưng khi thời gian đã làm mờ phai cảm xúc, những bức cận ảnh đó là những chứng cứ hào hùng, và đau thương, với đầy đủ thân phận con người (không như những câu chuyện anh hùng phi nhân bịa đặt) ghi lại những ngày binh biến cuối của Việt Nam Cộng Hòa.

Có bức hình ghi lại “đống rác” dân và quân trên đường tháo chạy bị dập vùi trên sóng nước. Sóng tung cuốn dập vùi rồi lại tung cuốn dập vùi. Mạng người tơi tả như những cọng rác không hồn trên sóng.

Có bức hình ghi lại cảnh hỗn mang với bản năng của loài thú sống dậy trong từng người trong cuộc tranh sống sau cùng. Đủ mọi cách tranh sống và đủ mọi kiểu chết.

Có bức ghi lại cái hoang mang cùng cực và nỗi tuyệt vọng tràn lan như bệnh dịch với vòng tự sát bằng lựu đạn mau dần và to dần rồi gói vào một tâm điểm lạnh ngắt: Phước râu đòi tự tử vì “tụi nó tự tử nhiều quá,” và Khải máy đồng tình vì “mình chạy như vầy để làm cái gì…”

Bức vẽ lại mình và đồng đội càng thú vị. Những người lính ba gai với đủ mọi tật xấu đủ mọi trò cà chớn ma le được nhắc đến một cách oang oang thẳng thắn không vòng vo giấu diếm. Lạ là kể xấu nhưng thằng bị kể và người nghe không có gì để hổ, chỉ làm đậm rõ tính người và làm cho những mất mát của họ đáng trân trọng; trong khi có nhiều lời khen tặng mà đọc phải thấy ngượng cho người viết và người được khen. Những người lính hèn mọn ấy trong cơn tuyệt vọng tìm lẽ sống không bỏ bạn bỏ ông thầy. Những lúc chạy chết lạc nhau thì ba thằng “cao bồi” luôn đi tìm ông thầy. Bưởi luôn đỡ lưng và Khải máy lấy thân mình che cho 520 nương chạy, các đại bàng đã tung cánh bay xa. Họ, những người hèn mọn ấy, nếu biết truyện Tàu sẽ như Đơn Hùng Tín than rằng “hậu lâm nguy bất kiến chỉ huy.” (Xin quí vị còn ở lại với lính nhận lời tạ lỗi và tri ân của kẻ dân hèn.) Bị bắt tới nơi, trò xúi thầy chối trách nhiệm chỉ huy để còn được ở tù chung mà lo cho ông thầy. Chỗ này chợt nhớ phim “The last emperor” vua Phổ Nghi bị Cộng Sản Trung Hoa thảy vào tù. Trong tù vẫn có đệ tử trung thành đưa bàn chải kem đánh răng phục vụ, lấy cơm, v.v… dĩ nhiên chúng lôi đi chứ đâu để cho yên. Các anh em dù có xấu cũng không có gì để hổ, không hùng gì hơn ai nhưng chắc chắn không hèn.

Với mình và với nhau thì vậy. Với cấp chỉ huy bất xứng và lệnh vô lý đưa anh em vào chỗ chết, Huy râu ứa nước mắt thương anh em chết oan, uất hận mình đứng đó mà không cứu được đồng đội. Huy mập thoát chết không mừng mà khóc rống vì tức tối. Buồn cười. Cười rồi buồn.

Còn với kẻ thù? Được làm vua thua làm giặc. Những người lính hèn mọn ấy nói “bắn thì bắn…” nhất định không làm hàng binh. Không những vậy, thua trận vẫn chưa bỏ cuộc: bị bắt xỏ xâu chưa vào tù thì thầy đã tính kế vượt thoát cùng trò, đâu dễ dàng chịu bó tay. Dù chọn binh nghiệp hay bị cái ách chiến tranh nó quàng vào cổ thì khi ra trận các anh em vẫn đánh đến kẻ thù phải khiếp danh. Trang 108 và 109 là những hình ảnh chiến đấu oai dũng xuất sắc, và là những dòng xuất sắc.

Trang 108, Trâu Điên kẹt sâu trong vùng địch thì lệnh cho Kình Ngư vào giải vây nhẹ như bông gòn: “ông đem con cái vô đó!”

 Quân giặc bạt ngàn như kiến cỏ

 Gươm thần lồng lộn gạt trường thương… (Vô Ngã)

Trâu Điên “vẫn tả xung hữu đột chiến đấu như đang thực tập một bài chiến thuật trong quân trường.”

Khi bắt tay được với Kình Ngư vào giải vây, các anh em chỉ một lời: “đánh giặc đã quá ông thầy.” Bao máu xương mất mát, bao sinh tử cận kề mà chỉ một lời như vừa chơi xong một trận tranh tài football hay basketball, vòng loại. Các anh, đã thật.

Trang 109 là một bức tranh vẽ ra cái hào khí khốc liệt trong thinh lặng lạnh lùng. Các anh Hắc Long cùng đường vẫn chiến đấu dai hơn “đỉa”. Không mũ không giầy không giáp, vẫn “vừa đánh vừa cười nói bô bô.” “Chết sớm dzậy mảy,” anh khác tiến lên, ngã xuống, lại anh khác tiến lên…Người đánh quên mình và người chứng quên thân.

 Đại trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường

Không đao to búa lớn vậy nhưng điều thực đã hơn vậy, hai chữ hào hùng thường đã bị lạm dụng. Cô nhi quả phụ của các anh Hắc Long, xin hãnh diện. Người lính tháng Ba với những dòng chữ đơn sơ ngắn gọn đã làm rực sáng những nét kiêu hùng.

 

 

5.

Tháng Ba, cái “tôi” không phải là trọng tâm dù được nói đến. Nhưng bóng dáng người viết vẫn từ từ rõ nét.

Những bút ký chiến trường xưa in dáng vẻ một người lữ khách cô đơn. Dẫu chiến đấu cùng đồng đội hay đơn độc qua các mặt trận các chiến trường, người ấy vẫn cô đơn. Một ba lô một điếu thuốc - người bạn thiết thân của lính, người ấy nói lên lẽ thật tuyên xưng cái thiện và nêu lên biết bao những nét hào hùng của người lính. Mà vẫn có bóng dáng cô đơn, vẫn có cái vẻ nặng nặng buồn buồn của những cánh chim trên phá Tam Giang, có cái giọng ai oán của người dân Quảng Trị. Ít khi người ta hút chung một điếu thuốc.

Trong tháng Ba thấp thoáng bóng dáng anh hùng Lương Sơn Bạc, sống cùng đồng đội và trong vòng tay đồng đội. Rượu say khà một tiếng quên hết sự đời. Trốn phép thì sáng xỉn chiều say. Hùng hục về tới đơn vị, nhậu. Đi tăng phái, nhậu. Đêm rải tuyến, nhậu. Chạy qua cầu Tràng Tiền ngó lại lần cuối, cũng nhậu. Thoát chết lên bờ, ờ thì nhậu. Ngồi giữa chợ mà nhậu, mà bàng quan thiên hạ sự. Không mấy khi người ta nhậu một mình. Nhậu, và cười. Cười quan bóp cổ cười lính anh hùng cười dê cỏn buồn sừng cười mình xua lính đánh giặc mồm. Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

Lương Sơn Bạc, nhưng chỉ là thư sinh lớn gan đi đánh giặc. Không biết lớn gan vì uống hay vì uống mà lớn gan, nhưng đánh giặc thì làm được trung úy cũng phải thôi. Sức đâu mà chạy như lính mà bay xa như quan. Moi năm ba cái lỗ tí hon thì được, chứ hố cá nhân thì lính nó phải đào giùm, có chết chỉ cần lấp cát.

Cái lấn cấn khi gặp người của tháng Ba đã rõ. Thật ra anh đã chết rồi tháng Ba năm ấy.

 Ai đi Tây Tiến mùa Xuân ấy

 Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Anh đã để lại hồn mình. Nghe nói chuyện thấy ngờ ngợ. Đọc xong tháng Ba hóa ra có chỗ mình chưa đọc đã biết vì chính là đời anh gói lại đó đây. Gấp sách lại, tưởng như anh đã đóng nắp hầm cho những anh em chọn ở lại, đắp mặt cho những anh em phơi thây, và hứa một chỗ cho mình. Tưởng như anh muốn nói - không chung số nhưng đồng phận, chúng ta đã sống trọn phận mình; tụi bay chờ, tao tới; anh em, chờ tôi với, 520 rồi sẽ đến.

Tháng Ba, thôi quên đi… 

Lưu Na

nhân đọc Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy
2009

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Tư 20244:07 CH(Xem: 429)
On the evening of December 21, 1946, the Bach Mai radio resumed its operations somewhere in the province of Ha Dong after a day of silence. One of its broadcasts was Ho Chi Minh’s appeal to the Viets for a war of resistance. He reportedly said: The gang of French colonialists is aiming to reconquer our country. The hour is grave. Let us stand up and unify ourselves, regardless of ideologies, ethnicities [or] religions. You should fight by all means at your disposal. You have to fight with your guns, your pickaxes, your shovels [or] your sticks. You have to save the independence and territorial integrity of our country. The final victory will be ours. Long live independent and indivisible Viet Nam. Long live democracy.
08 Tháng Ba 202411:17 SA(Xem: 2674)
The fact that Ho Chi Minh proclaimed Vietnamese independence and the formation of the Democratic Republic of Viet Nam [DRVN] on September 2, 1945 did not assure its international recognition. The French—reactionaries and progressive alike— adamantly insisted on the reintegration of Indochina into the French Empire, by force if necessary. Other great powers, for various reasons, independently supported the French reconquest.
23 Tháng Mười 20237:38 CH(Xem: 5590)
Even prior to the termination of the war in Europe in the summer of 1945, the United States and the Soviet Union stood out as the leading Great Powers. The United States emerged as the most powerful and richest nation, envied by the rest of the world due to its economic strength, technological and military power. Meanwhile, the Soviet Union surprised all world strategists with its military might. Despite its heavy losses incurred during the German invasion—1,700 towns and 70,000 villages reportedly destroyed, twenty million lives lost, including 600,000 who starved to death in Leningrad alone, and twenty-five million homeless families—after 1942 the Red Army convincingly destroyed German forces and steadily moved toward Berlin.
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 6558)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 59918)
R ồi đến cuộc sụp đổ của miền Nam mùa Xuân 1975 và nhiệm kỳ Tổng thống vừa tròn 40 tiếng đồng hồ của Tướng Minh. Lệnh buông súng đầu hàng của Tướng Minh sáng ngày 30/4/1975 khiến nhiều người, vốn chẳng biết nhiều về những diễn biến tại hậu trường sân khấu chính trị, trút mọi trách nhiệm việc “ mất nước ” (sic) lên đầu ông “ hàng Tướng ” này. [Những lời thở than, khóc lóc “ mất nước ” cũng chẳng khác gì việc đồng hoá một chế độ chính trị với “ Tổ Quốc ” trên trình độ hiểu biết chữ Việt!]
18 Tháng Tư 20248:23 CH(Xem: 347)
Lê Chiêu Thống là vị hoàng đế thứ 16 và là cuối cùng của nhà Hậu Lê. Triều đại nhà Hậu Lê của ông đã chứng kiến nhiều cảnh rối ren của lịch sử nước nhà. Đó là giai đoạn Trịnh Nguyễn Phân Tranh, cả hai đều mang danh nghĩa "phù Lê diệt Mạc". Chúa Trịnh đã diệt được nhà Mạc cho nhà Hậu Lê. Nhưng quyền hành lại nằm trong tay nhà Trịnh. Và sau đó là sự tranh giành và kết thúc của các đời chúa Trịnh. Và sự phát triển lớn mạnh của nhà Tây Sơn đã đánh đổ Chúa Trịnh với danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh". Lòng dân Bắc Hà hoang mang cực độ. Nguyễn Huệ tuy thắng trận, nhưng chưa nắm được lòng dân nên không xưng đế. Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục để nhà Lê làm vua. Nhưng cả ông lẫn nhà Lê điều hiểu rõ quyền hành đang nằm trong tay ai? Nguyễn Huệ tham khảo ý kiến vợ là Công chúa Lê Ngọc Hân việc đưa nhân vật nào lên ngôi. Cuối cùng Nguyễn Huệ đồng ý đưa Duy Khiêm lên ngôi vua. Vua mới đổi tên thành Duy Kỳ, đặt niên hiệu là Chiêu Thống. Ông làm vua chưa tới 3 năm, từ tháng 7 (âm lịch) 1786 tới tháng 1-1789.
15 Tháng Tư 202410:16 SA(Xem: 507)
Vòng Tay Học Trò là tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa năm 1964. Tác phẩm được công chúng nồng nhiệt đón nhận và theo đó cũng hứng nhiều luồng ý kiến khác nhau, càng làm cho tác phẩm nổi tiếng hơn. Chính vì vậy, từ khi xuất hiện, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận trong giới chuyên môn và công chúng độc giả, Hàng chục năm sau, lúc chúng tôi còn nhỏ, chưa đọc tác phẩm đã thuộc tựa đề vì Vòng Tay Học Trò gắn liền với tên tuổi tác giả. Nói đến Nguyễn Thị Hoàng người ta nhớ đến Vòng Tay Học Trò.
15 Tháng Tư 202410:12 SA(Xem: 953)
đời đã một lần ta có nhau / thời gian sương trắng nhạt phai màu / tóc xanh ngày mộng nào xa ngái / rồi bỗng chìm quên trong mắt sâu
15 Tháng Tư 202410:04 SA(Xem: 894)
Cạn đêm vàng võ mảnh sầu Bạc vương nhánh tóc áo nhàu dung nhan Còn chăng ta với nồng nàn? Đếm xanh xuân rụng vơi tan cuộc người
15 Tháng Tư 20249:48 SA(Xem: 882)
Sài gòn buổi sáng ngồi một mình Cây cao đường vắng phố lặng thinh Người phu quét lá gom từng lá Chiếc lá vàng khô hết nhục vinh