- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

DÃ QUỲ TRẦM LẶNG

01 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 95548)

 

daquytramlang_dc-content

 Tranh Đinh Cường

Tặng họa sĩ Đinh Cường

 

Máy bay hạ cánh ở phi trường Liên Khương, trời Đà Lạt mát lạnh với buổi sáng sớm còn mờ hơi sương. Người đàn ông ngồi bên cạnh trên máy bay hẹn tôi sẽ lấy vé. Rồi anh biến mất trong dòng người. Tôi điện thoại cho Hà đến đón, xe honda 100 phân khối Hà phóng như bay trên con đường lộng gió, hai bên đồi thông bạt ngàn, hoa dã quỳ vàng rực rỡ.

 

Chợ Đà Lạt nhộn nhịp ngày cuối tuần, thành phố của các loài hoa nên tôi tha hồ lựa chọn. Phân vân một lúc, tôi quyết định đặt bó hồng vàng đến dự buổi khai mạc phòng tranh. Gian tiền sảnh khách sạn Đà Lạt-Hoàng Gia đã đông khách. Tôi không biết những người bạn mà tôi sắp gặp là ai, lao xao bóng người qua màn mưa sau lớp cửa kính, Đà Lạt se lạnh, mưa rắc nhẹ nhưng thấm nắng vàng. Tôi thật mừng khi nhận ra vợ chồng anh Trương Văn Dân - Elena trong một góc phòng, tôi đang tìm những họa sĩ tác giả phòng tranh thì anh Nguyên Minh kéo họa sĩ Đinh Cường đến, tôi xin lỗi vì đã đến trễ.

 

Từ ngày nghiên cứu về Trịnh Công Sơn tôi quen biết nhiều người bạn của ông và được họ ưu ái, giúp đỡ; đó là những hạnh ngộ mà mỗi người trong cuộc đời thật may mắn gặp được. Họ là những bậc đàn anh, lớn hơn tôi rất nhiều, tài hoa, đầy trải nghiệm. Và tôi đã học hỏi được rất nhiều từ họ.

 

Giữa buổi anh Lữ Quỳnh từ Cali gọi điện về thăm, hỏi tôi buổi triễn lãm ra sao, bạn bè đến nhiều không, anh Phạm Văn Đỉnh đang từ Toulouse qua Mỹ chơi. Tôi nói em thật kỳ cục đứng trước mặt họa sĩ Thân Trọng Minh, em hỏi ông Lữ Kiều là ai, làm mọi người bật cười.

 

Bửu Ý dòng dõi hoàng tộc, dịch giả tiếng Pháp, lần đầu tiên tôi gặp cách đây 8 năm, ngày cô Lợi còn sống ông tiếp tôi ở căn nhà đường Phạm Ngũ Lão, phòng khách nhỏ ấm áp chung quanh đầy tranh. Cô Lợi đoan trang áo dài thướt tha đi làm về, ông giới thiệu với cô tôi từ Quy Nhơn đến hỏi thăm tư liệu về người bạn nhạc sĩ thân thiết của mình. Ông khuyên tôi nên đi sâu vào mảng ca từ nói về tình yêu, đừng nghiên cứu rộng sẽ không sâu. Thời đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đang bệnh, ông tiếp tôi ở phòng khách trên chiếc xe lăn, thỉnh thoảng có một thanh niên ra chăm sóc ông. Tuy giọng nói còn khó khăn, ông vẫn vui vẻ tiếp chuyện tôi cả buổi chiều và khuyên tôi nếu nghiên cứu Trịnh Công Sơn đừng nên bỏ dòng nhạc phản chiến, tôi cũng đồng ý với ông như vậy. Hoàng Phủ Ngọc Tường với những bài tùy bút tài hoa, ngôn từ diễm ảo, trước mặt tôi là một Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khác.

 

Tranh họa sĩ Đinh Cường với mảng màu tối sáng mạnh mẽ, chủ đạo là sắc xanh lam huyền bí. Các bức tranh triễn lãm lần này gồm chân dung những người bạn, phong cảnh Đà Lạt, các thiếu nữ thanh thoát vai gầy, áo dài bay với chiếc cổ vươn cao, làm tôi nhớ đến các bức tranh vẽ thiếu nữ của Ngô trong “Mùa biển động”; nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã cho Diễm phê bình như vầy “Anh cứ vẽ cái cổ dài ngoằng, cái thân ốm tong teo, đến kỳ!”, Diễm cho rằng Ngô chịu ảnh hưởng của người họa sĩ gốc Ý Modigliani. Tôi không biết họa sĩ Đinh Cường có chịu ảnh hưởng ai không, nhưng hình ảnh các thiếu nữ vai gầy, với chiếc cổ vươn dài làm tôi liên tưởng đến bài hát Như cánh vạc bay của Trịnh Công Sơn.

 

Đà Lạt tháng 8 thật đẹp, không gian mát lạnh làm con người tự nhiên thư thái hơn, đường gập ghềnh đèo dốc, đổ xuống một thung lũng rộng vây quanh hồ Tuyền Lâm, làng biệt thự của Đào Nguyên Dạ Thảo đang xây ôm bên sườn đồi ven hồ thật tuyệt, Mimosa đang mùa hoa nở vàng mơ cả một dải rừng. Anh Dân tình tứ ngắt nhành Mimosa tặng Elena, chị reo lên thích thú nhớ nước Ý của chị cũng Mimosa đầy ngõ như vậy. Dạ Thảo năng động. Vợ chồng anh Nguyên Minh - chị Lan bình dị chân chất. Họa sĩ Hoàng Trọng Bân giản dị. Điêu khắc gia Phạm Văn Hạng phong trần kiểu cao bồi miền Tây với áo choàng, mũ phớt. Vợ chồng nhà văn Lữ Kiều tài tử, chị vợ duyên dáng trẻ trung, mọi người trèo lên dốc cao đến quán Thỏ rừng nằm cheo leo trên đỉnh đồi hực nắng.

 

Mùi thịt thỏ nướng thơm lừng bên bếp than hồng, chúng tôi ăn xuýt xoa vì nóng, vì lạnh. Anh Đinh Cường hiền lành ít nói, Anh Bửu Ý kín đáo nhẹ nhàng.

 

 Tôi không biết ngày xưa Đà Lạt đã gắn bó với họ thế nào, nhưng qua cách nói, ánh nhìn xa vắng tôi nghĩ họ đang hồi tưởng về thời thanh niên trong một đất nước đầy chinh chiến cùng những người bạn đã xa. Chắc hẳn thời trai trẻ nơi này đã lưu giữ trong họ bao kỷ niệm với những nỗi niềm thầm kín.

 

Buổi chiều cả đoàn đến thăm gia đình anh chị Lê Kim Ngữ - Bích Ngọc giáo sư dạy Pháp văn trước năm 1975. Ngôi biệt thự thật đẹp chung quanh hoa chuông đỏ rực, vườn rộng với nhiều giàn hoa sắc thắm. Chị vợ mến khách cười luôn miệng khoe bức tranh của họa sĩ Bé Ký tặng treo ngay phòng khách, chủ nhà vui mừng giới thiệu tủ sách đầy ắp, lấy ra bộ sách cổ nguyên bản tiếng Pháp từ thế kỷ thứ 19 khoe với Bửu Ý. Trà thật ngon ấm từng hơi thở, tôi chiêu từng ngụm nhỏ cảm nhận vị ngọt nơi đầu lưỡi.

 

 

 

Nhưng cuộc đời không phải bao giờ cũng là vị ngọt, vị đắng tôi trãi đã nhiều. Nghiên cứu Trịnh Công Sơn tôi gặp biết bao vị đắng. Đắng đến sững sờ, đắng tê đầu lưỡi. Có lẽ ông Trịnh Công Sơn cũng không ngờ cô gái ngồi sau lưng ông trong đêm văn nghệ năm 98 ông về thăm Trường sẽ là người nghiên cứu cuộc đời và sáng tác của ông. Cô gái mà ông cứ quay xuống nhờ liên tục, “bé tìm giúp tụi anh một ít đá đi, không có đá tụi anh không uống rượu được”. Như để tìm thêm cảm xúc, ông và nhạc sĩ Thanh Tùng cụng ly liên tục. Hội trường lúc ấy nghẹt kín sinh viên, trên hành lang, trên cửa sổ, ngồi cả dưới đất gần sát sân khấu. Tôi không thể nào tìm được lối ra, cuối cùng đành leo lên sân khấu ra phía cánh gà có cửa ra vào dành cho diễn viên, tôi nhờ các sinh viên đang trực cửa tìm mua đá đem vào cho ông. Ngày ấy, tôi ở trong ban tổ chức nhà trường tiếp đón đoàn của ông, nhóm “Những người bạn” gồm Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập, Thanh Tùng, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Hiên... Đó là một đêm đầy cảm động, sinh viên Quy Nhơn đón ông như đón một người anh trai lâu ngày trở về, các bạn cứ gọi sư huynh, sư huynh vì ông là khóa sinh đầu tiên của Trường. Khi Trịnh Công Sơn lên sân khấu tiếng vỗ tay không dứt, ông xúc động khi đứng trên sân khấu nhớ lại thời đi học những năm 60, kể cho chúng tôi nghe những năm tháng ấy và ông hát liên tục. Tụi sinh viên ngồi dưới hát theo như một dàn đồng ca đã được tập dượt trước. Đêm đã khuya chương trình như không muốn dứt.

 

Những ngày tháng báo chí liên tục đưa tin về tập sách Trịnh Công Sơn, tôi như người đi trên mây, sống không trọng lượng. Người ta bôi nhọ, phủ lên tôi những điều tôi không thể tin nổi: "phỉ báng xương máu của bao thế hệ cha anh đã ngã xuống tô thắm nền hòa bình của đất Việt". Ngày ấy, tôi vô cùng khổ sở, hàng đêm tôi tự hỏi tại sao lại như vậy, ông Trịnh Công Sơn có linh thiêng hãy phù hộ tôi. Ngày làm luận văn khi đến nhà ông ở 47C Phạm Ngọc Thạch, chị Vĩnh Thúy em gái đầu của ông dắt tôi lên gác đến thăm phòng ông, tôi có cảm giác như ông đang đứng bên cạnh. Khi xuống cầu thang giày của tôi tự nhiên bị đứt, tôi không thể đi về bằng chân trần, chị Vĩnh Thúy phải cho tôi mượn giày của chị và nói vui, anh Sơn giữ chân em lại đó. Buối tối, tôi đến gửi lại giày cho chị và thắp hương viếng ông. Chụp với ông một tấm hình bên bức tượng. Có lẽ ông đã linh thiêng thật, nên đem những người bạn của ông về giúp tôi. Nghĩ lại, tôi thấy cuộc đời thật buồn, tại sao có những người ưa nhân danh những điều đại tự sự rồi tự cho mình cái quyền rao giảng, chụp mũ người khác. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác cũng đã từng căn dặn tôi cẩn thận khi tham gia văn đàn. “Văn trường là chiến trường” người ta giết nhau chỉ vì chút hư danh.

 

 

 

Cuối chiều tôi tạm biệt những người bạn về lại Sài Gòn, những người bạn mà tôi biết rất khó gặp lại trong cuộc đời này, thời gian là những khoảnh khắc, và hãy sống hết mình cho những khoảnh khắc ấy.

 

 

 

Phi trường Liên Khương im vắng, tôi có ý tìm người đàn ông trên máy bay để cảm ơn, nhưng không thấy anh đâu. Anh có một khu rừng 5 hecta trồng hoa Lys ở Đà Lạt, hàng tuần đều từ Sài Gòn lên đây thăm nom, sáng đi chiều về nên quen thân các cô bán vé, nhìn anh có vẻ thân thiện nên tôi tin tưởng, người đàn ông đã lấy vé giùm tôi trở về Sài Gòn cùng chuyến. Giấc chiều vùng đồi núi hoang vắng thật buồn, có cái gì đó thật lạnh xuyên qua tâm hồn.

Đêm dần buông, hành khách cuối cùng vào sân bay, tôi nghe tiếng gọi của anh, bên khung cửa anh lao vào rên rỉ, tôi gọi cô đến cháy máy luôn sao không nhấc điện thoại, đợi cô ngoài hành lang cả tiếng rồi tưởng cô không đi. Anh lắc đầu và tự nhiên bực bõ, cô làm tôi mất một buổi chiều. Thật tức cười, tôi đi thật sớm mà, ai biểu anh chờ tôi ngoài cửa làm gì. Anh nói chưa bao giờ anh chờ đợi ai lâu, nóng lòng và gọi điện thoại liên tục như vậy, cô coi nè 20 cuộc gọi, sao cô không bắt máy. Trời ạ, máy tôi hết pin rồi làm sao nghe được. Chỉ mới gặp tôi 1 tiếng trên máy bay lúc sáng sao anh bức rức quá vậy… Chuyến về người đàn ông ngồi hàng ghế sau, anh cứ nhìn tôi vẻ trách móc. Sài Gòn về đêm mưa nặng hạt, tôi chạy ra ngoài phi trường đón taxi anh hỏi tôi ở đâu có thể đi cùng xe không, anh có xe. Anh tần ngần muốn nói điều gì đó nhưng cứ đứng im. Tôi vội vã làm như đang bận rộn lắm, cảm ơn người đàn ông và bước vội ra ngoài làm anh ngơ ngác.

 

Ngơ ngác như buổi chiều tôi nhận quà của họa sĩ Đinh Cường, người đưa thư trao tôi một bưu phẩm lớn. Bưu phẩm được gói cẩn thận hai lớp, tôi không nghĩ anh lại chu đáo gửi cho tôi bức tranh lồng sẵn trong khung gỗ có cả móc treo như vậy. Bức tranh đề tặng vẽ cảnh Đà Lạt trong trí nhớ năm 95 tại Virginia. Khung cảnh buồn, hồ Xuân Hương sắc xanh thăm thẳm làm chủ đạo khuôn hình. Xa xa nhà Thủy Tạ, khách sạn Palace, nhà thờ con Gà, tháp Trường Yersin màu trắng tương phản trên nền rêu phong cảnh rừng thông, đồi núi ẩn hiện. Phía trên cao ngọn LangBian màu lam sẫm bừng nhẹ một nét viền trắng, cả bức tranh toát lên không khí trầm mặc, lạnh, u hoài.

 

Tôi không biết giá trị của bức tranh anh như thế nào vì tôi là người ngoại đạo. Bức tranh anh tặng tôi trân trọng để nơi làm việc, mỗi lần mệt mõi tôi có thể thư giãn chìm trong cõi tĩnh lặng của rừng thông, của không khí mát lạnh huyền bí từ hồ Xuân Hương, để mỗi lần nhìn lên ngọn LangBian lại thấy bừng lên một chút tươi sáng.

 

 

 

Có phải những người bạn tốt là những người đem cho ta sự yên bình và tin tưởng.

 

 

 

23/9/2011

 

BAN MAI

 

---------------

Ghi chú của tác giả:

(*) Đà lạt trong trí nhớ, tranh Đinh Cường, Virginia 95.

(*) Họa sĩ Thân Trọng Minh còn có bút hiệu Lữ Kiều khi viết văn, làm thơ.

(*) Chữ bạn in nghiêng để nói đến những người bạn là bậc đàn anh, không phải bạn ngang hàng.

(*) Dã quỳ là loài hoa có sắc vàng rực rỡ, đến mùa hoa nở, dã quỳ tràn ngập trên các sườn đồi, loài hoa đặc trưng của cao nguyên Đà Lạt – Lâm Đồng. Phi trường Liên Khương mới xây được thiết kế theo hình ảnh hoa dã quỳ.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Tư 20244:07 CH(Xem: 412)
On the evening of December 21, 1946, the Bach Mai radio resumed its operations somewhere in the province of Ha Dong after a day of silence. One of its broadcasts was Ho Chi Minh’s appeal to the Viets for a war of resistance. He reportedly said: The gang of French colonialists is aiming to reconquer our country. The hour is grave. Let us stand up and unify ourselves, regardless of ideologies, ethnicities [or] religions. You should fight by all means at your disposal. You have to fight with your guns, your pickaxes, your shovels [or] your sticks. You have to save the independence and territorial integrity of our country. The final victory will be ours. Long live independent and indivisible Viet Nam. Long live democracy.
08 Tháng Ba 202411:17 SA(Xem: 2673)
The fact that Ho Chi Minh proclaimed Vietnamese independence and the formation of the Democratic Republic of Viet Nam [DRVN] on September 2, 1945 did not assure its international recognition. The French—reactionaries and progressive alike— adamantly insisted on the reintegration of Indochina into the French Empire, by force if necessary. Other great powers, for various reasons, independently supported the French reconquest.
23 Tháng Mười 20237:38 CH(Xem: 5590)
Even prior to the termination of the war in Europe in the summer of 1945, the United States and the Soviet Union stood out as the leading Great Powers. The United States emerged as the most powerful and richest nation, envied by the rest of the world due to its economic strength, technological and military power. Meanwhile, the Soviet Union surprised all world strategists with its military might. Despite its heavy losses incurred during the German invasion—1,700 towns and 70,000 villages reportedly destroyed, twenty million lives lost, including 600,000 who starved to death in Leningrad alone, and twenty-five million homeless families—after 1942 the Red Army convincingly destroyed German forces and steadily moved toward Berlin.
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 6558)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 59900)
R ồi đến cuộc sụp đổ của miền Nam mùa Xuân 1975 và nhiệm kỳ Tổng thống vừa tròn 40 tiếng đồng hồ của Tướng Minh. Lệnh buông súng đầu hàng của Tướng Minh sáng ngày 30/4/1975 khiến nhiều người, vốn chẳng biết nhiều về những diễn biến tại hậu trường sân khấu chính trị, trút mọi trách nhiệm việc “ mất nước ” (sic) lên đầu ông “ hàng Tướng ” này. [Những lời thở than, khóc lóc “ mất nước ” cũng chẳng khác gì việc đồng hoá một chế độ chính trị với “ Tổ Quốc ” trên trình độ hiểu biết chữ Việt!]
18 Tháng Tư 20248:23 CH(Xem: 339)
Lê Chiêu Thống là vị hoàng đế thứ 16 và là cuối cùng của nhà Hậu Lê. Triều đại nhà Hậu Lê của ông đã chứng kiến nhiều cảnh rối ren của lịch sử nước nhà. Đó là giai đoạn Trịnh Nguyễn Phân Tranh, cả hai đều mang danh nghĩa "phù Lê diệt Mạc". Chúa Trịnh đã diệt được nhà Mạc cho nhà Hậu Lê. Nhưng quyền hành lại nằm trong tay nhà Trịnh. Và sau đó là sự tranh giành và kết thúc của các đời chúa Trịnh. Và sự phát triển lớn mạnh của nhà Tây Sơn đã đánh đổ Chúa Trịnh với danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh". Lòng dân Bắc Hà hoang mang cực độ. Nguyễn Huệ tuy thắng trận, nhưng chưa nắm được lòng dân nên không xưng đế. Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục để nhà Lê làm vua. Nhưng cả ông lẫn nhà Lê điều hiểu rõ quyền hành đang nằm trong tay ai? Nguyễn Huệ tham khảo ý kiến vợ là Công chúa Lê Ngọc Hân việc đưa nhân vật nào lên ngôi. Cuối cùng Nguyễn Huệ đồng ý đưa Duy Khiêm lên ngôi vua. Vua mới đổi tên thành Duy Kỳ, đặt niên hiệu là Chiêu Thống. Ông làm vua chưa tới 3 năm, từ tháng 7 (âm lịch) 1786 tới tháng 1-1789.
15 Tháng Tư 202410:16 SA(Xem: 496)
Vòng Tay Học Trò là tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa năm 1964. Tác phẩm được công chúng nồng nhiệt đón nhận và theo đó cũng hứng nhiều luồng ý kiến khác nhau, càng làm cho tác phẩm nổi tiếng hơn. Chính vì vậy, từ khi xuất hiện, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận trong giới chuyên môn và công chúng độc giả, Hàng chục năm sau, lúc chúng tôi còn nhỏ, chưa đọc tác phẩm đã thuộc tựa đề vì Vòng Tay Học Trò gắn liền với tên tuổi tác giả. Nói đến Nguyễn Thị Hoàng người ta nhớ đến Vòng Tay Học Trò.
15 Tháng Tư 202410:12 SA(Xem: 935)
đời đã một lần ta có nhau / thời gian sương trắng nhạt phai màu / tóc xanh ngày mộng nào xa ngái / rồi bỗng chìm quên trong mắt sâu
15 Tháng Tư 202410:04 SA(Xem: 891)
Cạn đêm vàng võ mảnh sầu Bạc vương nhánh tóc áo nhàu dung nhan Còn chăng ta với nồng nàn? Đếm xanh xuân rụng vơi tan cuộc người
15 Tháng Tư 20249:48 SA(Xem: 876)
Sài gòn buổi sáng ngồi một mình Cây cao đường vắng phố lặng thinh Người phu quét lá gom từng lá Chiếc lá vàng khô hết nhục vinh