- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Journey

28 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 91242)


 journey2-content

Tôi vẫn mê những cuộc hành trình. Có những hành trình thoáng qua trong tôi như cơn gió thoảng. Có những hành trình để lại trong tôi nhiều xúc động. Có những hành trình, dù xa xưa, vẫn đeo theo tôi như một bóng ma để nhiều năm sau này, bất ngờ hiển hiện khi tôi ngỡ đã quên. 

 

Chúng tôi đậu xe. Bãi mênh mông, từng vạt bụi tung mù theo bánh xe lăn. P nắm tay tôi theo dòng người tiến về phía sân khấu. Mùa thu tháng chín lơ lửng trên cao, man mát, dịu dàng như tách biệt hẳn với khung cảnh nhộn nhịp bên dưới. Người đi bộ tràn ra từ các lối đi, nhập vào con đường chính. Tiếng nhạc bập bùng vọng lại từ xa.

“Thấy dân Phi đi đông không?”

Tôi nhìn quanh, và nhận ra điều lạ lùng ấy. Từng tốp người Á đông, tóc đen, da sậm, nói cười rôm rả. Càng vào gần, không khí càng náo nhiệt. Mùi thức ăn luồn vào khứu giác. Khói bốc lên từ những bếp thịt nướng. P chen vào quầy thịt nướng. Tôi đứng chờ bên ngoài, lơ đãng nhìn dải nắng úa tàn trên ngọn cây. Mặt trời ngả xuống bên đồi. Màu nắng yếu ớt xuyên qua kẽ lá khiến tôi nhớ lại những lần đi nghe nhạc ngoài trời. Cũng màu nắng vàng hửng của mặt trời hấp hối. Cũng khung cảnh náo nhiệt. Cũng người qua kẻ lại tấp nập. Từng tốp người Phi Luật Tân đủ mọi lứa tuổi đổ về sân khấu. Tôi cũng chưa hiểu vì sao dân Phi Luật Tân lại mê ban Journey, mê loại nhạc Rock ồn ào. Journey là một ban nhạc Rock của Mỹ, thành lập vào năm 1973 ở thành phố San Francisco. Ban nhạc Journey nổi danh vào những năm đầu thập niên 80 với những bài hát trữ tình Faithfully, Send Her My Love, Wheel in the Sky, When You Love a Woman.

 

Không khí keo lại nơi cổng vào. Những đôi chân bước chậm, sát theo nhau. Trời tối dần. Tôi nhìn lên cao. Màu trời tím nhạt điểm vài vì sao nhấp nháy. Không gian đượm mùi thức ăn nồng nàn. Người đi nhộn nhịp. Chúng tôi đi theo những đốm đèn vàng dưới chân. Nhân viên soát vé chiếu đèn bấm soi đường. Chúng tôi tìm được số ghế của mình ở gần lối đi. Tôi ngồi xuống bên P, co ro vì lạnh. Nhạc thùng thùng điếc tai. Sân khấu nhóa đèn nhức mắt. Ban nhạc chính Journey chưa xuất hiện. Mọi người ồn ào ăn uống, không ai chú tâm vào đám ca sĩ phụ đang gân cổ hò hét. Ánh đèn đổ tràn lên người họ những lượn sóng màu rực rỡ. P mở túi thức ăn, đưa tôi cái hot dog cuốn trong giấy bạc. Ly beer P cầm trên tay sủi bọt trắng ngời. Tôi cầm cuốn giấy bạc còn ấm trong tay, không thấy đói. Tôi đang mải nghe những âm hưởng từ ký ức. Trừ cặp trai gái người Mỹ phía bên phải, quanh chúng tôi là những người Phi Luật Tân. Cặp trung niên bên phía trái. Đôi vợ chồng trước mặt. Đám thanh niên trai gái ngồi phía sau. Họ nói chuyện với nhau bằng thứ ngôn ngữ tôi không hiểu nhưng đã thuộc lòng trong trí nhớ.

Ang lamig naman.

Kailan siya darating?

Gutom na ako.

 

Nhưng hai mươi tám năm trước ở Freedom Plaza của trại tỵ nạn Bataan, tôi không nghe những câu nói đó. Chung quanh tôi là ngôn ngữ Việt, thứ ngôn ngữ hào hùng như những lời ca vang vang trên loa công viên. Sân khấu lộ thiên tỏa sáng. Ca sĩ Nguyệt Ánh trong chiếc áo dài vàng in ba sọc đỏ uốn lượn. Cả thân người cô nhịp nhàng theo tiếng nhạc. Tóc cô xõa dài. Ca sĩ Việt Dzũng ôm guitar đứng bên, mồ hôi lấp lánh trên vầng trán rộng. Cờ bay, cờ bay, oai hùng trên thành phố thân yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu. Cờ bay, cờ bay tung trời ta về với quê hương... Guitar dồn dập. Giọng Nguyệt Ánh cao vút. Giọng Việt Dzũng trầm hùng. Hai tiếng hát phóng vút lên cao, mất hút vào vùng núi Bataan huyền bí. Tôi như nhìn thấy mình, nhỏ bé trong khuôn viên trại, lọt thỏm giữa khu rừng nhiệt đới lạ lùng. Núi đồi Bataan ngàn đời câm lặng, đã mở ra đón những người tỵ nạn xa lạ.

Ban nhạc Journey vừa lên sân khấu. Dàn nhạc náo động. Đàn trống khua vang. Rừng người la hét, vỗ tay, huýt sáo. Giờ thì tôi biết tại sao dân Phi đến đây. Ca sĩ mới của ban nhạc Journey là người Phi Luật Tân. Màn ảnh lớn trên đầu sân khấu tập trung vào anh ca sĩ tóc dài ngang vai, quần jeans bụi, áo da đen lủng lẳng dây xích. Hello Pinoy. Arnel Pineda chào riêng khán giả Phi Luật Tân.

“Thằng này được tụi Journey tìm trên youtube.” P hét vào tai tôi.

Trên sàn diễn, kèn trống khua rộn. Cặp trung niên người Phi cũng đứng nhổm dậy. Bà vợ bụm tay lên miệng huýt sáo. Ông chồng nhìn tôi đang lúng túng ngồi trên ghế. P kéo áo tôi.

 

Tôi đứng lên. Sân khấu rộn ràng âm thanh. Ca sĩ Nguyệt Ánh vừa hát vừa khuyến khích mọi người cùng hát theo. Một cánh tay đưa lên. Hàng ngàn cánh tay đưa lên. Hàng vạn cánh tay đưa lên. Quyết đấu tranh cho một nền hòa bình công chính. Đập nát tan mưu toan. Đầu hàng cái quân xâm lăng. Hòa bình phải trong vinh quang. Đền công lao bao máu xương hùng anh... Tôi đứng bên Linh và Phúc, tim đập thình thịch bởi tiếng hát, tiếng vỗ tay, tiếng reo hò. Sau lưng tôi, Dũng và Thanh lẩm bẩm hát theo. Chúng tôi còn lạ lẫm với những lời ca dũng mãnh đang nghe. Chúng tôi vừa bỏ lại sau lưng Dáng Đứng Bến Tre, Vàm Cỏ Đông, Trị An Âm Vang Mùa Xuân.

 

 Trời đêm lấp lánh sao. Chúng tôi đi bộ từ Freedom Plaza về Vùng 8 sau buổi văn nghệ. Dũng cũng đến từ trại tỵ nạn Palawan. Dũng ở Sài gòn, vượt biên được tàu Mỹ vớt đem vào Palawan tạm trú cùng khoảng thời gian tôi ở đó. Thanh, Đạt, Phúc đến từ trại tỵ nạn Mã Lai. Linh được chuyển qua từ trại tỵ nạn Thái Lan. Chúng tôi quen nhau trong lớp học Anh văn dành cho minors. Đêm mát và trong. Chúng tôi đi bộ qua khu hành chánh của trại. Khác với Palawan chỉ toàn thuyền nhân Việt Nam. Bataan là trung tâm chuyển tiếp của người tỵ nạn Đông Nam Á. Những người ở Bataan đã được thanh lọc và chờ đi định cư ở đệ tam quốc gia. Gia đình tôi được chuyển đến đây từ đảo Palawan. Thành phố Bataan thuộc quận Morong, cách thủ đô Manila độ ba giờ xe. Chu vi trại rộng khoảng 3600 mẫu, chia làm mười vùng. Có những vùng dành riêng cho người tỵ nạn Lào và Cam Bốt. Dũng và Thanh ở Vùng 9. Gia đình tôi ở dãy nhà cuối Vùng 8, cạnh con đường ra suối và nghĩa địa của người tỵ nạn. Buổi sáng tôi vừa chứng kiến đám tang thuyền nhân chết bệnh trong trại. Một mảnh gỗ đơn sơ khắc tên người xấu số cắm ở đầu mộ. Người Việt đã để lại nhiều dấu vết trên con đường đi tìm tự do. Có những người đã chết ngay trên đất nước mình khi chưa kịp ra đi. Chết vì bị công an biên phòng bắn. Có những người chết trên biển vì bị hải tặc giết. Có những người chết trên hoang đảo vì đói. Có những người chết trong trại tỵ nạn, nơi tạm dừng chân. Có những người chết nơi xứ người, như sau này sẽ xảy ra ở Mỹ, ở Canada, ở Úc.

Thuyền nhân Việt Nam ở Bataan không còn ra biển ngóng về quê cũ mỗi chiều. Đã qua hết những ngày lênh đênh trên biển. Đã xa rồi những tên cướp biển đầu trâu mặt ngựa. Bataan là một trại tỵ nạn ai cũng muốn đến. Dân tỵ nạn ở Bataan buổi sáng đi học Anh văn, trưa lãnh thức ăn về nấu, chiều xếp hàng hứng nước tắm giặt, tối ngồi quán café nghe Phi Khanh hát Thu Vàng trong máy cassette. Buổi sáng tôi học Anh văn với đám bạn diện minor. Tôi ghi danh một lớp học đàn. Những ngón tay lần đầu lóng ngóng đặt lên phím đàn. Mỗi bấm tay là một mất mát. Mỗi nhịp điệu là tiếng thở dài. Tôi đàn Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Linh rơi nước mắt và giận tôi. Tôi hiểu. Lòng mẹ bao la hơn biển Thái Bình. Lòng mẹ nhân từ hơn biển Thái Bình. Biển đã cướp đi mạng sống của bao nhiêu người vượt biển. Chúng tôi phải đóng thuế cho biển để đổi lấy tự do. Bao nhiêu người phải tế biển để chúng tôi được sống. Chúng tôi nợ họ. Chúng tôi vừa vượt đại dương. Trí nhớ còn mới nguyên những kinh hãi chưa nhòa. Tôi đặt tay lên phím đàn. Năm cánh sao run rẩy. Sao biển đang thay hình đổi dạng, như mái tóc tôi cũng đã nhạt dần hơi muối. Tôi nhìn Linh, Phúc, Dũng, Thanh mắt ngấn nước. Tôi sẽ không bao giờ đàn Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào nữa. 

Chuyến xe đò đến Bataan khác hẳn chuyến xe đầu tiên đưa chúng tôi đến Manila. Mọi người nô nức, hồ hởi. Chúng tôi đang đi đến tương lai. Bataan là trạm nghỉ êm đềm. Xe đỗ bến ở đầu trại, mọi người được đưa vào khám sức khoẻ tổng quát. Nắng Bataan gay gắt như nắng Sàigòn. Đất đỏ tung mù sân trạm xá. Tôi nhớ gió biển Palawan mát rượi, nhớ bãi cát trắng mịn gót chân. Trong đầu vẫn còn rù rì tiếng sóng reo. Tôi thấy buồn cười với nỗi nhớ của mình. Palawan hay Bataan, đâu rồi cũng chỉ là những mảnh đất tạm dung trong cuộc hành trình. Trong trạm xá của trại, chúng tôi khai báo tên tuổi. Đám người tỵ nạn bị đẩy qua khu khám bệnh. Đàn ông một bên. Đàn bà một bên. Trong phòng khám che bằng vải màn, chúng tôi giật mình bối rối. Theo lệnh của nhân viên y tế người Phi, chúng tôi phải cởi hết áo quần. Từng đám đàn bà, con gái trần truồng bị lùa vào phòng khám. Tôi không hiểu họ định được bệnh gì qua mắt nhìn. Những người đàn bà Việt Nam luống cuống. Những cô thiếu nữ thanh tân đỏ mặt cúi gằm. Bầy người trần trụi diễu hành. Những đôi mắt đàn ông Phi sỗ sàng không che dấu. Tôi ngượng ngùng nhìn xuống thân thể mình khẳng khiu chờ thành thiếu nữ. Tôi nhìn các chị thịt da co rúm, tay lóng ngóng che đậy. Hai mươi lăm năm sau, khi xem cảnh chụp phụ nữ Việt Nam ở trần cho đàn ông Đại Hàn, Mã Lai, Đài Loan, Trung Cộng lựa mua, cảm giác rờn rợn pha lẫn tủi nhục của buổi chiều trạm xá lại trở về đầy ắp trong tôi. Hình ảnh bà Trưng bà Triệu cỡi voi uy nghi còn sáng ngời trong trí óc tôi. Những bài học lịch sử đất nước từ năm lớp sáu tôi vẫn còn nhớ như in. Cô Mỹ Dung dạy môn Lịch Sử có tài kể chuyện thu hút mê hồn. Bà Triệu ngang tàng chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, nhất định không khom lưng chịu làm tì thiếp người ta! Hai bà Trưng anh dũng, thu nạp binh lính, dựng cờ chống quân Hán xâm lược, hy sinh hạnh phúc riêng tư. Lịch sử đất nước tuôn ra từ đôi môi duyên dáng của cô làm chúng tôi mê mẩn.

Đất nước tôi oai hùng là thế! Anh thư nước tôi khí phách là thế!

 

Linh nắm chặt tay tôi khi đi qua trạm xá. Con cháu hai Bà vật vã đớn đau trên sàn tàu cướp biển. Hẳn Linh chưa thể nào quên những ngày dằng dặc bị giam hãm trên tàu đánh cá Thái Lan. Hẳn Linh chưa quên những tên cướp biển tìm kiếm thú vui trên thân xác Linh còi cọc.

“Kể đi, chúng làm gì Linh?”

Ngày đó chúng tôi ngây thơ hỏi về hành trình của nhau. Hành trình của những đứa trẻ mơ làm thủy thủ mà trôi dạt đói khát trên biển. Hành trình của những đứa trẻ mơ làm nàng tiên cá nhưng lọt vào tay cướp biển. Tôi nhìn vầng trán Linh lơ thơ tóc vàng cháy nắng. Nét hồn nhiên chưa trở lại trên khuôn mặt Linh. Bầu ngực con gái dậy thì luôn luôn khép chặt. Tôi như còn nghe tiếng Linh kêu to xé buốt. Bọn cướp Thái Lan giam Linh trên tàu một tháng. Cho ăn và giầy vò. Chúng quăng Linh xuống biển cùng hai can dầu để tự bơi vào bờ. Đôi mắt Linh còn in hằn nét bàng hoàng sợ hãi. Làm sao trả cho Linh nụ cười thơ trẻ. Làm sao trả cho Linh màu mắt trong chưa biết tủi nhục. Làm sao trả cho Linh thân thể con gái tinh khôi chưa vấy.

Linh bạn tôi. Năm ấy Linh mười lăm tuổi. 

 

Ban nhạc Journey vừa lên sân khấu đã thu hút hết tâm trí khán giả. Sau màn chào mở đầu, ban nhạc chơi liên tiếp không ngừng. Rừng người nhún nhảy theo tiếng nhạc. Cặp vợ chồng trung niên người Phi vỗ tay hào hứng. Bà vợ nhìn tôi nháy mắt cười. Không còn những âm thanh xa vắng vọng về từ quá khứ. Sân khấu loang loáng đèn màu. Tiếng guitar solo lúc dìu dặt tha thiết lúc gầm gào như thác đổ. Tôi nhìn lên bầu trời cao thẳm. Nền trời như vật vô tri giác, vẫn cao, vẫn lồng lộng, vẫn nhấp nháy sao. Chỉ có con người xao xuyến, chỉ có trái tim tôi rung động với ký ức. Những ngọn cây viền quanh rạp hát khẽ lay. Mắt tôi dừng lại trên những chiếc lá mang màu đêm quyến rũ. Đêm nhộn nhịp âm thanh như ngày tôi mười bốn.

 

Dũng, Thanh, Đạt, Linh cùng đứng bên tôi. Bataan. Freedom Plaza. Đêm đặc người. Đêm âm nhạc. Sân khấu ghép bằng gỗ mộc vừa đủ chỗ cho đôi song ca và anh nhạc sĩ. Đàn dạo tình tang. Đôi song ca giọng nhịp nhàng quyện quanh. Người đàn bà đứng đằng trước la lên. Trời, ca giống y chang Nhật Trường-Thanh Lan. Tôi nhìn Dũng thắc mắc. Thanh Lan, Nhật Trường là ai tôi chưa hề nghe. Tôi chỉ biết Ái Vân, Nhã Phương, Bảo Yến. Trên đường về Dũng kể tôi nghe chuyện Dũng đi bụi đời được nghe nhạc vàng Nhật Trường-Thanh Lan, Chế Linh-Thanh Tuyền. Tôi nhìn mặt Dũng nhỏ nhít. Dũng mười bảy. Dũng bụi đời mang biệt hiệu Đakao. Tôi nhìn Dũng da cháy nắng Palawan. Dũng Đakao bụi đời Mơ Thành Người Quang Trung. Dũng Palawan mơ gì?

Khi chúng tôi về âm nhạc vẫn còn rộn ràng ở Freedom Plaza. Qua khu hành chính, đến khu chợ trời Vùng 5. Qua dẫy trường học, đến con đường đưa về Vùng 8. Tôi khát khô cổ. Dũng moi tiền trong túi ra đếm. Mấy đồng pesos reo leng keng, vừa đủ mua một chai Mellow-Yellow ướp lạnh. Dũng rót một nửa cho tôi. Dòng nước óng chảy tựa mảnh lụa cong vòng. Bàn tay tôi bất chợt run rẩy. Rõ ràng là dòng nước chanh ngọt lịm tôi ao ước khi nằm trong lòng ghe, thân thể khô, cổ cháy khát. Đêm vụt trôi lơ lửng. Khoảng trời đen sao đêm nhấp nháy như những chuyến hành trình xa xưa của tôi và đám bạn minor mãi còn ẩn hiện.

 

Trên sân khấu, giọng Arnel Pineda vươn cao, ngân dài. Chuỗi âm thanh lồng lộng vút vào vùng đêm bình lặng. Ban nhạc dạo bản cuối cùng. Hành trình ban Journey kết thúc. Tôi nhìn bầu trời đêm, bắt đầu đếm những cuộc hành trình của dân tộc mình.

 

 

Nguyễn Xuân Tường Vy

San Jose

28 tháng tư, 2011 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Tư 20244:07 CH(Xem: 451)
On the evening of December 21, 1946, the Bach Mai radio resumed its operations somewhere in the province of Ha Dong after a day of silence. One of its broadcasts was Ho Chi Minh’s appeal to the Viets for a war of resistance. He reportedly said: The gang of French colonialists is aiming to reconquer our country. The hour is grave. Let us stand up and unify ourselves, regardless of ideologies, ethnicities [or] religions. You should fight by all means at your disposal. You have to fight with your guns, your pickaxes, your shovels [or] your sticks. You have to save the independence and territorial integrity of our country. The final victory will be ours. Long live independent and indivisible Viet Nam. Long live democracy.
08 Tháng Ba 202411:17 SA(Xem: 2676)
The fact that Ho Chi Minh proclaimed Vietnamese independence and the formation of the Democratic Republic of Viet Nam [DRVN] on September 2, 1945 did not assure its international recognition. The French—reactionaries and progressive alike— adamantly insisted on the reintegration of Indochina into the French Empire, by force if necessary. Other great powers, for various reasons, independently supported the French reconquest.
23 Tháng Mười 20237:38 CH(Xem: 5590)
Even prior to the termination of the war in Europe in the summer of 1945, the United States and the Soviet Union stood out as the leading Great Powers. The United States emerged as the most powerful and richest nation, envied by the rest of the world due to its economic strength, technological and military power. Meanwhile, the Soviet Union surprised all world strategists with its military might. Despite its heavy losses incurred during the German invasion—1,700 towns and 70,000 villages reportedly destroyed, twenty million lives lost, including 600,000 who starved to death in Leningrad alone, and twenty-five million homeless families—after 1942 the Red Army convincingly destroyed German forces and steadily moved toward Berlin.
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 6561)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 59924)
R ồi đến cuộc sụp đổ của miền Nam mùa Xuân 1975 và nhiệm kỳ Tổng thống vừa tròn 40 tiếng đồng hồ của Tướng Minh. Lệnh buông súng đầu hàng của Tướng Minh sáng ngày 30/4/1975 khiến nhiều người, vốn chẳng biết nhiều về những diễn biến tại hậu trường sân khấu chính trị, trút mọi trách nhiệm việc “ mất nước ” (sic) lên đầu ông “ hàng Tướng ” này. [Những lời thở than, khóc lóc “ mất nước ” cũng chẳng khác gì việc đồng hoá một chế độ chính trị với “ Tổ Quốc ” trên trình độ hiểu biết chữ Việt!]
19 Tháng Tư 20246:57 SA(Xem: 46)
Sáng sớm Chủ Nhật, điện thoại gõ nhẹ, nhìn vào messenger thấy dòng chữ nhắn tin từ chú Khánh Trường: “Tập thơ in xong rồi. Ghé lấy nhé.” 30 phút sau tôi ghé nhà, chú chỉ lên kệ sách: “Chỉ mới in 3 cuốn. Cháu cầm 1 cuốn về đọc trước.” Mở trang đầu dưới dòng chữ THƠ KHÁNH TRƯỜNG là hàng chữ “Tặng cháu, Nina Hòa Bình Lê”. Cảm động. Bài viết này xin có lúc được gọi Chú, xưng cháu.
18 Tháng Tư 20248:23 CH(Xem: 382)
Lê Chiêu Thống là vị hoàng đế thứ 16 và là cuối cùng của nhà Hậu Lê. Triều đại nhà Hậu Lê của ông đã chứng kiến nhiều cảnh rối ren của lịch sử nước nhà. Đó là giai đoạn Trịnh Nguyễn Phân Tranh, cả hai đều mang danh nghĩa "phù Lê diệt Mạc". Chúa Trịnh đã diệt được nhà Mạc cho nhà Hậu Lê. Nhưng quyền hành lại nằm trong tay nhà Trịnh. Và sau đó là sự tranh giành và kết thúc của các đời chúa Trịnh. Và sự phát triển lớn mạnh của nhà Tây Sơn đã đánh đổ Chúa Trịnh với danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh". Lòng dân Bắc Hà hoang mang cực độ. Nguyễn Huệ tuy thắng trận, nhưng chưa nắm được lòng dân nên không xưng đế. Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục để nhà Lê làm vua. Nhưng cả ông lẫn nhà Lê điều hiểu rõ quyền hành đang nằm trong tay ai? Nguyễn Huệ tham khảo ý kiến vợ là Công chúa Lê Ngọc Hân việc đưa nhân vật nào lên ngôi. Cuối cùng Nguyễn Huệ đồng ý đưa Duy Khiêm lên ngôi vua. Vua mới đổi tên thành Duy Kỳ, đặt niên hiệu là Chiêu Thống. Ông làm vua chưa tới 3 năm, từ tháng 7 (âm lịch) 1786 tới tháng 1-1789.
15 Tháng Tư 202410:16 SA(Xem: 516)
Vòng Tay Học Trò là tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa năm 1964. Tác phẩm được công chúng nồng nhiệt đón nhận và theo đó cũng hứng nhiều luồng ý kiến khác nhau, càng làm cho tác phẩm nổi tiếng hơn. Chính vì vậy, từ khi xuất hiện, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận trong giới chuyên môn và công chúng độc giả, Hàng chục năm sau, lúc chúng tôi còn nhỏ, chưa đọc tác phẩm đã thuộc tựa đề vì Vòng Tay Học Trò gắn liền với tên tuổi tác giả. Nói đến Nguyễn Thị Hoàng người ta nhớ đến Vòng Tay Học Trò.
15 Tháng Tư 202410:12 SA(Xem: 959)
đời đã một lần ta có nhau / thời gian sương trắng nhạt phai màu / tóc xanh ngày mộng nào xa ngái / rồi bỗng chìm quên trong mắt sâu
15 Tháng Tư 202410:04 SA(Xem: 907)
Cạn đêm vàng võ mảnh sầu Bạc vương nhánh tóc áo nhàu dung nhan Còn chăng ta với nồng nàn? Đếm xanh xuân rụng vơi tan cuộc người