- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Radio Mùa Hè – Thơ Phan Nhiên Hạo

02 Tháng Sáu 202010:06 CH(Xem: 15214)
radio mua he

Radio Mùa Hè - thơ Phan Nhiên Hạo


Trưa thứ Bảy mở thùng thơ, cuốn Radio Mùa Hè, thơ Phan Hiện Hạo, đến đúng lúc tôi đang suy nghĩ ngày mai sẽ đọc gì. Thú thật là bìa và tựa sách đã thấy qua đâu đó có lúc khiến tôi tò mò chú ý, có lẽ vì mình đã đọc và quen thuộc với lối “phát sóng” trên băng tầng này, cũng có lẽ mùa cách ly, con người thèm phiêu lưu đến những vùng miền nhiễu âm.

 

“Te te... tò tí te...

Good morning, anh chị em thủng nhĩ.

Đây là tiếng nói cô đơn,

Phát thanh từ nước Mỹ,

Giữa đồng bắp miền Trung Tây,

Trên băng tầng lưu vong không hối tiếc.”

 

Tôi ngừng đọc. Lắng nghe. Đã từ lâu tôi có một thói quen xấu, khi đọc thơ trí não tôi tự động phân loại rành rọt. Một: loại thi ca gây cho mình cảm hứng. Hai: loại không gây cảm hứng nếu không muốn nói làm mình mất hứng.  Vậy mà lật tới lật lui, đọc đi đọc lại, tật xấu không nổi lên. Thay vào đó tôi thấy mình chăm chú lắng nghe.  Tôi trở lại lần tay trên bìa sách, khoảng trắng với những vân vạch to nhỏ ngắn dài của biểu đồ tần số như phát lên một âm thanh vừa rè đục vừa trong vắt. Ở một nơi chừng như trống rỗng trắng xóa, ý tưởng mọc lên giữa âm thanh nhiễu loạn. Và bài Radio mùa hè tiếp tục văng vẳng:

 

 “Hôm nay trời cứng

Sẽ ngỏng đến 37 độ C

Không mưa và ngột ngạt áp thấp

Vì những chuyện điên ở phía Đông.

 

Để cứu đứa con mình,

một người mẹ tự sát.

Hai người đàn bà truồng

Ôm ghì lấy thân thể đất đai.

Đám đông căng biểu ngữ trên cầu,

Tìm cách cứu dòng sông

nhưng  bị đạp xuống nước.”

 

Lời tường thuật dửng dưng ngắt quãng khiến người đọc không thể không liên tưởng đến cái mặt trái phi lý của sự việc, những mâu thuẫn, mối liên hệ được mất, ý chí và sự đầu hàng của con người, dù trong vô thức hay ý thức.  Lưu ý cụm từ “trời cứng sẽ ngỏng,” thủ thuật “incongruous juxtaposition” trong thi ca chăng, nhưng hiệu ứng của nó là cái hài, nhưng không phải cái hài dùng để chọc cười vô tội vạ, mà nói lên tính mâu thuẫn của đối tượng, một đối tượng chẳng có gì đáng cười.

 

Phía Tây vẫn bình thường:

Làm việc, ăn ít mỡ, lái xe

Qua những đường lòng vòng,

Đèn đỏ giúp quá trình rã tan chậm lại.

Cuộc đời là tảng băng,

Hao nhanh hơn ngày nắng.

 

Âm thanh tự lúc nào đã bắt sang hình ảnh chuyển động. Không thể chỉ lắng nghe nữa, mà phải nhìn, phải thấy. Cái mà chúng ta say mê gọi là cuộc đời, đi qua những  nẻo đường lòng vòng,  chậm lại,  ít nhiều, dài ngắn, trở về thực chất, một “quá trình rã tan”. Mới nghe như cụt ngủn, nhưng chỉ là bắt đầu, ngày nắng hao đi chính là lúc thơ xuất hiện, một cuộc đối thoại, ở đó mọc lên những chuỗi dài hình ảnh của một thế giới tư tưởng.

Qua những trang thơ, người đọc có thể tìm thấy khung cảnh, trạng thái, âm hưởng, tính chất, thời khắc, bằng thứ ngôn ngữ không thỏa hiệp, thậm chí hằn học, kinh tởm: 

 

“Đây là thời chủ nhân ăn mày ăn nhặt

trong khi đầy tớ nhân dân ăn ngập mặt, ngập mũi

ăn hớt, ăn bẩn, ăn tục, ăn lận, ăn chặn, ăn cướp, ăn gian,

ăn tham, ăn lường, ăn bịp, ăn suông, ăn ké, ăn chia, ăn sống

ăn lạnh, ăn nóng, ăn theo, ăn chực, ăn vạ, ăn lẻ, ăn

ăn tất tần tật

chỉ trừ ăn năn

ăn không sợ trả miếng.”

 

Nhưng giữa cái thời đại của “người sống ở nghĩa trang và người chết ngồi ở nhà hàng” này, con người vẫn “như bông hoa, tiếng mõ chiều”, vẫn “sống qua những thời khắc bị đầu độc / đến nỗi tình thương cũng gây dị ứng buồn.” , sống trong một “đất nước bụng trương”, một “thời đại bùn lầy / muốn làm người chúng ta phải ra đi.”

Dọc ngang suốt những trang sách là tâm trạng của kẻ phải bỏ nhà ra đi, lưu vong xứ lạ, những người dù “ăn mặc chải chuốt nhưng đứng ngồi lố nhố”, những người đang “ngậm ngùi một quê hương đã mất”:

“Hoang mang và phấn khích

Chúng ta đặt chân lên miền đất lạ

Không khí lạ, nhà cửa lạ, tiếng nói lạ,

Cầu tiêu lạ, người ta lạ,

mình là người lạ.”

Cầu tiêu lạ? Vâng, chữ nghĩa đôi khi như muốn gây sốc, nhưng thật đắt, và thi ca đã được dùng như con dao sắc rọc thủng bức màn hiện sinh cho ta thấy cái ẩn mật bên trong.

Phan Nhiên Hạo cũng nói đến những thay đổi, khó khăn, gầy dựng, giữa những ám ảnh và mất mát, trong hoài niệm về sự khốn cùng, bài ca của ý chí, hy vọng và tình yêu vang cao xa, những điều tuy cũ kỹ muôn đời nhưng luôn luôn nằm trong tâm thức kẻ khao khát sống. Sống như một con người:

“Chúng ta đến xứ sở này xa lạ

ra đi chưa hết lạ

nhưng không bao giờ thôi yêu mến

mặt hồ đại dương

căn nhà chở che hạnh phúc

lối mòn nhỏ ven rừng con ta bước tiên khởi tự do.

Đây là nơi chúng ta hàn gắn mình

Như thợ giày khâu vết thương há miệng

Sau đường dài ngập máu

sau đường dài ngập phân

sau chợ chiều cân xác chết chiến tranh

một triệu tiếng chuông không mua hết oan hồn.

Đây là nơi chúng ta sống đàng hoàng

và chết vào buổi chiều có cánh

bay về một xứ sở đã xa.

 

Địa lý của chúng ta ở giữa những kinh tuyến của u hoài

và triển vọng

lịch sử của chúng ta như mặt trống

đau đớn và âm vang

không bao giờ im lặng

không bao giờ sơn phết

không bao giờ lãng quên.”

 

Đọc Phan Nhiên Hạo, người đọc không cần phải thứ tự, có thể đọc bài chính giữa, trở lại bài đầu, lật bài sang trang, xuyên suốt những trang sách, người đọc có thể nhận thấy những nụ cười nhạt chen giữa sự nghiêm túc, thành thật. Thơ gọn, mực thước, cô đọng, không cần nhiều lời trữ tình, không ướt, nhưng đậm đặc thanh âm và hình tượng. Thơ anh hoàn toàn thoát ra khỏi cái “khẩu khí” hư ngụy từ chương giả trá vốn trì nặng thơ ca Việt Nam từ trung đại cho đến hiện đại. Và, không thể bỏ qua tính hài, mà ở đây, phải được hiểu là tính mâu thuẫn của sự vật được nhìn qua lăng kính thi ca:

“Nhìn xuống quá nhiều cầu tiêu mỗi ngày

sau cùng bạn thấy như loa

lải nhải bài ca bốc mùi

về sự khốn cùng và hy vọng.”

 

Đọc Phan Nhiên Hạo đến bài thứ tư, thứ năm, người ta sẽ nhận ra sự thú vị bất ngờ. Thơ anh không làm cho người đọc ủy mị, mơ mộng, ngược lại, thơ anh khiến người đọc thấy mình sáng suốt, tỉnh táo, như người lái xe vừa qua khỏi một khúc đường quanh co sương mù, những điều thường lệ bấy lâu khuất mắt bỗng hiển hình rõ nét, chân thể như bản chất nguyên thủy chính nó. Như bài “cá trong giếng”:

 

“Khi con nhỏ em họ tôi

câu cá rô, chiên giòn

còn vài con thả giếng,

nước đục và không sâu

nó nói: “Đây là những con cá may mắn.”

 

Nhưng mỗi ngày

Hàng chục lần gàu sắt

giáng xuống,

tôi biết đây là địa ngục trần gian

của những kẻ sống sót.” 

Đọc thơ Phan Nhiên Hạo, tôi nhận ra mình, tôi gặp lại quê hương của tôi, thành phố của bạn bè tôi, nghe được tiếng “trời mưa từ sáng đến chiều”. Thơ anh mang thông điệp của một người đã qua bên kia bờ dòng sông, vẫn ngụp lặn tìm, những buổi sáng tỉnh dậy ở bên này, lồng ngực vẫn đầy những xáo động từ giấc mơ đêm qua bên kia. Thơ anh đưa tôi trở về những ngày còn ở lại, những buổi sáng bị cổ động tập trung ở quảng trường tập thể dục buổi sáng, nơi “Âm nhạc trở nên nhọn như tên / mỗi ngày bắn ra từ loa sắt ; xuống những mái nhà, đường phố, cỏ cây, đồng ruộng / đình chùa, bữa ăn, giấc ngủ / khoảnh khắc yêu nhau vợ chồng ọp ẹp / giây phút linh thiêng kẻ sắp lìa đời.” 

Đọc Phan Nhiên Hạo để nhớ về một quê hương có những trang sử cần được viết lại từ những người sống và chứng kiến ngày “Xe tăng T54 thủ dâm trước dinh Độc Lập / thụt thụt nhiều lần lên thảm cỏ xanh / sướng ngất trong cơn co giật / sốt rét.” Đọc Phan Nhiên Hạo cũng để quên đi hướng tới “Nhìn con cái mình lớn lên / chúng ta bồi hồi tương lai giống Tiên Rồng khỏe mạnh / nở trứng xứ người / và ngậm ngùi một quê hương đã mất. Những con đường đã mất, xe đạp xanh đã mất / mùa hè hoa phượng đỏ Komtum đã mất / sông đã mất rồi biển sẽ mất.” 

Đọc thơ anh để thấy chặng đường dài thế hệ chúng tôi đã đi qua tuy không hiển vinh, nhưng đầy rãy những thời khắc miệng ngậm mắt thao láo. Và từ những kinh nghiệm tan tác, mất còn,  người ra đi bắt đầu lại từ đầu trên quê hương xa lạ: “nơi chúng ta thấy thế giới lần đầu”. Và chúng ta ai cũng có thể cảm nhận được những lúc “trải qua nhiều giờ khắc suy nghĩ về số phận / vặn đồng hồ báo thức, nhìn ngắm bức ảnh cũ, rồi đi ngủ / bao giờ cũng nhét cuốn từ điển dưới gối / phòng trường hợp gặp người lạ trong giấc mơ.” 

Tôi đọc Phan Nhiên Hạo đến đoạn “Nguyễn Tuân nói: “tôi còn sống đến hôm nay / Nhờ biết sợ”,  con chuột nói: “tôi ăn no / vì biết tôn kính mèo.” Đặng Tiểu Bình nói: / “mèo đen mèo trắng, no problem, miễn bắt được chuột”,  tôi không thể không liên tưởng đến thời đại của chúng ta, mới thứ Sáu vừa qua,  Facebook CEO Mark Zuckerberg, sau 16 giờ im lặng kể từ khi Twitter lên tiếng đã nói: “Tôi hiểu rất nhiều người giận giữ vì chúng tôi đã giữ y nguyên những lời đăng tải của Tổng Thống, nhưng chúng không vi phạm gì...” 

Tôi đọc Phan Nhiên Hạo, thấy như mình vừa đang trở về vừa đang bước tới:

Em thân yêu

hãy tin tôi

Sẽ đến ngày cánh rừng không còn cây để cháy

cha mẹ chúng ta trở về cánh đồng

đàn bà & vịt gà & ước vọng mây bay

từ trên đồi cao em sẽ thấy xứ sở này

nhỏ hẹp, mặn chat, rất gần mặt trăng

giống hệt con tàu hỏa

cũ kỹ và luôn trật đường ray

sau cùng sẽ đi hết đường xích đạo

qua những thế kỷ lầm lạc, đẫm máu

đến ga cuối cùng, chúng ta sẽ hiểu nhau.”

 

Hôm nay, thế giới và đất nước nơi cưu mang tôi đang bốc cháy, tôi cảm ơn “Radio Mùa Hè” đã phát ra những âm thanh ở tần số mà tôi có thể bắt được và cho tôi một góc trú ẩn trong đó. Xin trân trọng biết ơn và xin giới thiệu sách quý.

 

Hòa Bình Lê

30 tháng 5, 2020

 

phannhienhao
Chân dung nhà thơ Phan Nhiên Hạo




Sơ lược về tác giả: Phan Nhiên Hạo sinh năm 1967 tại Kon Tum. Cha anh là một sĩ quan trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Phan Nhiên Hạo tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm ngành văn chương tại Sài Gòn năm 1989 và sang Mỹ năm 1991. Tại Mỹ, Phan Nhiên Hạo học cử nhân văn chương Anh- Mỹ (1998) và cao học thư viện (2000) tại đại học UCLA. Anh cũng có bằng cao học nhân chủng học văn hóa (2011) từ đại học Illinois. Hiện anh làm việc cho một thư viện đại học tại Illinois. Phan Nhiên Hạo đã xuất bản ba tập thơ: Thiên Đường Chuông Giấy (1996), Chế Tạo Thơ Ca 99-04 (2004), Radio Mùa Hè l(2019). Anh cũng là tác giả hai tuyển tập thơ được dịch sang tiếng Anh: Night, Fish, and Charlie Parker (2005), Paper Bells (2020). Phan Nhiên Hạo hiện chủ trương tạp chí điện tử văn học litviet (litviet.org), nơi có đăng lại nhiều sáng tác của anh. Độc giả có thể tìm mua tập thơ Radio Mùa Hè trên Amazon, https://www.amazon.com/Radio-M%C3%B9a-Vietnamese-Nhien-Phan/dp/1927781787.



 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 72636)
N gười mù, người câm, người điếc, ai cũng thấy hiện trạng xã hội Việt Nam đương đại đang xoay thế nào. Một xã hội bất bình đẳng kinh khủng với ngàn tệ nạn lớn-nhỏ, trẻ-già, sang-hèn. [...] Nhưng chúng ta đã nhìn thấy gì, đã viết được dòng nào từ nguyên liệu khổng lồ ấy? Hay rời rạc dăm câu thơ không rõ nghĩa, vài ba truyện ngăn ngắn kháy khía tủn mủn [...] ngồi nhìn bầu trời xám xịt ô nhiễm, gác chân cho những đứa trẻ tội nghiệp lau giầy, rên ư ử trong nhà hàng bia ôm máy lạnh mà làm thơ móc máy lẫn nhau.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 81347)
Từ xưa đến nay, tình mẫu tử luôn là đề tài sáng tác vô tận cho thơ ca nói riêng và văn chương nghệ thuật nói chung. Một cách tự nhiên, Nguyễn Xuân Tường Vy đã chinh phục độc giả bằng chính những dòng viết giản dị, chân thật về tình cảm muôn thuở ấy.
21 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 69424)
Nói như Viện Hàn lâm Thụy điển vào đúng 13 giờ thứ năm 07/10/2010, theo lời thư kí Peter Englund khi ông công bố giải văn chương Nobel 2010 trao tặng cho (Jorje) Mario (Petro) Vargas Llosa, là như sau. Nhà văn xứ Pêru này trúng giải nhờ đã: « Thể hiện và phác họa toàn diện cơ cấu quyền lực và hình ảnh sắc cạnh chạm khắc nỗ lực kháng cự, tinh thần phẫn nộ và thành bại của cá nhơn con người. » Về mặt nghệ thuật: « Ông là nhà văn đã triển khai thuật kể chuyện theo phong cách quả tình kì ảo. » Về mặt con người của mình: « Qua tác phẩm, ta biết ngay ông là một con người say sưa trong hành xử. Hễ thấy mình phản ứng rập theo bổn sắc ấy, ông tỏ ra hết sức rung động và lấy làm vui vô cùng. »
17 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 85300)
LTS: Lê Vương Ngọc tên thật là Lê Đình Quỳnh, xuất thân là giáo sư tư thục Trung học các trường Hưng Yên, Hải Phòng thập niên 1950 và Sài gòn 1960. Ông nhìn vấn đề văn hoá như một “hobby” – Làm thơ, dịch sách, nghiên cứu, biên khảo nhiều về Phân tâm và Di truyền học – Theo quan niệm phê bình sáng tạo của Oscar Wilde…
17 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 73807)
Một cái chết tức tưởi, phi lí như thân phận con người trên cõi đời, như Albert Camus đã nhận xét trước kia. Ở tuổi 46, hai năm sau ngày lãnh giải Nobel. Trong túi xách của ông có đựng bản thảo cuốn tự sự hư cấu còn dang dở Le Premier Homme (Người đầu tiên), kí ức tặng mẹ, “người sẽ không đọc được nó’’. Cây ngô đồng (không hiểu sao) nay không còn nữa, chỉ có đài tưởng niệm dựng ở ven làng. (1)
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 86861)
Đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Ngô Thế Vinh còn là một sinh viên y khoa, đảm nhiệm chức vụ chủ bút cho tạp chí Tình Thương, tờ báo của những người sinh viên áo trắng. Trong thời gian này tôi là một sĩ quan rất trẻ của QLVNCH. Cả Ngô Thế Vinh và tôi bị cuốn vào một biến động làm rung chuyển rừng núi Tây Nguyên: vụ nổi loạn đòi tự trị của những sắc tộc thiểu số, mà báo chí thời đó gọi là FULRO.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92431)
Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng Tư 1975, chúng tôi có cái hân hạnh được Công đoàn bảo hiểm Pháp ( Fédération Française des Sociétés d’Assurance ), qua thỏa ước với Bộ Tài chánh CHXHCNVN, gởi về nước cùng với một số nhà giáo Pháp giảng dạy bộ môn Bảo hiểm còn mới này trong trường Đại học Tài chính và Kế toán Hà nội - nay trường đã lột xác trở thành Học viện Tài chính.
09 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 78195)
Cuối cùng rồi tôi cũng đọc quyển hồi ký ấy, quyển hồi ký gắn liền với một cái tên suốt 25 năm dài. Làm như người ấy tái sinh với tên cũ dài hơn: Cao Xuân Huy Tháng Ba Gãy Súng.
29 Tháng Mười 201012:00 SA(Xem: 12381)
Trên tạp chí mạng Da Màu ngày 02.04.2010, có đăng bài ca từ Tình sầu của nhạc sĩ kiêm thi sĩ Trịnh Công Sơn và bản dịch tiếng Anh Meditations in love của Đinh Từ Bích Thúy. Tiếp theo là phản hồi của nhiều độc giả, kể theo thứ tự thời gian: Nguyễn Đức Tùng, quynh du, T.T., ActionMinded, phaitran, Trinh - Trung Lap, Điền L., Thái Kim Lan.
26 Tháng Chín 201012:00 SA(Xem: 12845)
Trong lịch sử Việt Nam có hai cuộc di cư vĩ đại, cả hai cùng để lánh nạn cộng sản, vào năm 1954 và 1975. Cuộc di cư 1975, kéo dài từ những ngày tháng 4, 1975 cho tới năm 1988, là năm đóng cửa các trại tị nạn ở Đông Nam Á với sự ra đời của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) sau bao thảm kịch vượt biên vượt biển với khoảng 500 ngàn người bỏ mạng trên đường đi tìm tự do, theo một thống kê của Liên Hiệp Quốc...