- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

ÉDOUARD GLISSANT (1928-2011)

16 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 77704)

 

Một vì sao rụng

 

edouard_glissant

ÉDOUARD GLISSANT (1928-2011)

NHÀ VĂN TẠP CHỦNG TOÀN-CẦU

 

 

 Nếu như viện Hàn lâm Thụy điển, đầu tháng Mười năm ngoái, rốt cuộc đã trao giải Nobel 2010 cho nhà văn Pêru Mario Vargas Llosa hụt biết bao nhiêu lần trước đó (1), thì nay, viện không còn có thể vớt vát được nữa. Không còn có thể vinh danh dầu muộn mằn nhà văn Pháp da màu Édouard Glissant cũng đã liên hồi hụt giải. Nhà văn nobelisable, thường xuyên được nêu danh trong số có cơ đoạt giải này đã từ trần hôm qua, thứ năm 03 tháng 02/2011: hiện nay chưa có tiền lệ tặng giải cho các văn gia đã khuất (2). Tiếc thay! Cho viện Hàn lâm lỡ tàu và nhà văn hụt giải.

 

Từ bản sắc da màu…

 Nói nào ngay, thì chẳng phải viện Hàn lâm Thụy điển không hề nghĩ tới Édouard Glissant: như vừa nói, tên ông thường xuyên nằm trong số nhà văn nobelisable(s) mỗi năm gần đây. Có điều là hào quang tác phong quyết liệt nhưng bất bạo động của ông trong môi trường chánh trị và văn hóa trải dài hơn sáu chục năm tròn đã ít nhiều che trùm trên một sự nghiệp nghệ thuật cũng chẳng kém phần sắc cạnh. Suốt trọn cuộc đời khôn thôi sống động, ông không hề tách rời công trình sáng tạo văn chương ra khỏi mục tiêu mà ông tóm gọn qua haì í niệm créolisation (tạp chủng) và tout-monde (toàn-cầu).

 Édouard Glissant sanh ngày 21 tháng 09/1928 ở thị xã Sainte-Marie, tỉnh 972 - Martinique thuộc quần đảo Antilles của Pháp, nằm trong vùng biển Caribê châu Mĩ. Loại chi tiết vừa kể chẳng phải là không có ảnh hưởng sâu đậm tới thân thế và sự nghiệp của ông. Ngay cả tên họ của ông cũng phần nào báo hiệu thân thế và sự nghiệp này. Là bởi Glissant (glixxăng) là cách đọc đảo ngược tên họ Senglis (xăngglix) của một trong số chủ nông da trắng khai thác thuộc địa ở châu Mĩ bằng mồ hôi, nước mắt, máu thịt của hàng triệu dân châu Phi bị vây ráp, trói ké, quẳng xuống gầm tàu négrier (tàu chở mọi da đen) băng Đại tây dương bắt làm nô lệ kể từ thế kỉ XV. Bốn trăm năm sau, khi chế độ chiếm hữu và buôn mọi da đen lần lượt được bãi bỏ vào giữa thế kỉ XIX, giải phóng tầng lớp nô lệ (3), phải khẩn cấp đặt tên cho các công cụ mới được phục hồi nhơn phẩm: « Glissant, nghe cũng hay, nhà văn suy ngẫm, giãi bày. Nhưng còn có biết bao cách khác để gọi chúng tôi. Tiếng tạp chủng thường đặt nhiều tên cho sự vật một cách hồn nhiên. Ăn nói đa âm đa dạng vốn là lối phát biểu bản năng của dân tình chúng tôi. »

 Sau khi mài rách đũng quần trong trường Victor Schoelcher (tương đương thời ấy với các trường Pétrus Ký - Sài gòn, Quốc học - Huế và Bưởi - Hà nội) ở thủ phủ Fort-de-France, ông rời Martinique sang Paris năm 1946. Theo học ngành dân tộc học trong Musée de l’Homme (Viện bảo tàng Nhơn chủng) và lịch sử, triết học ở đại học Sorbonne. Bảo vệ luận án tiến sĩ dưới đề tài Le Discours antillais: le passage de l’oral à l’écrit en Martinique. Essai d’analyse éclatée d’un discours global (Diễn ngôn ở Antilles: từ lời nói tới chữ viết ở Martinique. Cảo luận mở phân tích một khối diễn ngôn).

 

 … qua hoạt động…

 Đồng thời với mấy thi phẩm đầu tay Un champ d’ îles (Quần đảo bao la – 1953) và La Terre inquiète (Trái đất âu lo – 1954), ông tham gia các phong trào tranh đấu qui tụ giới văn gia, trí thức và nghệ sĩ da màu gốc châu Phi, Antilles, Guyane và Hoa kì. Tranh luận với Léopold Sédar Senghor (1906-2001 - gốc Xênêgal) (4), Aimé Césaire (1913-2008 - gốc Martinique như ông) (5) và Langston Hugues (1902-1967 - gốc Hoa kì). Trong lúc L.S. Senghor và A. Césaire tôn tạo phong thái négritude (bản sắc da màu), xóa bỏ í nghĩa miệt thị và khinh thường trong tiếng Pháp và tiếng Anh/Mĩ nègre, nigger, negro (mọi da đen, lọ nồi) biến nó thành biểu hiện cho cảm tính tự trọng và tự tin - trong khi L. Hugues và đồng cánh vừa than thân trách phận vừa quyết liệt đảm nhận nguồn gốc châu Phi của mình (6), thì ông cho rằng tinh thần afrocentrism(e) (trở về cội nguồn châu Phi da đen) của họ chỉ là loại mơ tưởng ‘’trở về một cội nguồn đà mai một không còn cứu vãn được nữa’’.

  Năm 1960, Édouard Glissant kí rõ tên mình trong bản Manifeste des 121 (Kiến nghị của 121 nhà trí thức) do triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre (1905-1980) chủ xướng, đòi quyền trốn lính ở Algérie bấy giờ đang cầm súng nổi dậy dành độc lập. Năm sau, cùng với Paul Niger (1915-1962 - gốc Guadeloupe thuộc Pháp ở quần đảo Antilles như ông), thành lập Front antillo-guyanais pour l’autonomie (Phong trào tự trị Antilles và Guyane), có khuynh hướng đòi độc lập. Phong trào liền bị cấm, ông và đồng cánh thì bị trục xuất ra khỏi Guadeloupe, quản thúc tại gia ở Pháp sáu năm ròng, từ 1959 tới 1965. Trở về quê quán sau đó, thành lập Institut martiniquais d’études (Viện nghiên cứu Martinique) cùng với tập san Acoma (Acoma) đăng tải các công trình nghiên cứu của viện. Đồng thời cũng tiếp tục xây đắp sự nghiệp văn học bằng nhiều tác phẩm để đời.

 Với sự nghiệp đa dạng và đa diện này, ông nghiễm nhiên trở thành giám đốc tập san Courrier de l’Unesco (Thư mục Unesco) của Liên hiệp quốc kể từ năm 1982. Năm 1989, được bổ nhiệm làm Distinguished University Professor (Giáo sư đại học ưu tú) đại học Louisiana Hoa kì, chủ trì Trung tâm nghiên cứu Pháp học và Pháp ngữ. Rồi cư ngụ ở New York. Năm 1995, làm Distinguished Professor (Giáo sư ưu tú), chủ nhiệm khoa văn học Pháp đại học Thành phố New York. Năm 2006, được Tổng thống Pháp bấy giở giao phó nhiệm vụ thành lập Trung tâm nghiên cứu tình cảnh nô lệ đương đại. Hai năm sau, khi Tổng thống đương nhiệm có xu hướng bài xích dân nhập cư, cùng với nhà văn đồng hương giải Goncourt 1992 Patrick Chamoiseau, thảo bản tuyên ngôn phản kháng dưới tựa đề Quand les murs tombent, l’identité nationale hors la loi? (Khi biên giới sụp đổ, bản sắc dân tộc trở nên phi pháp chăng?). Trước đó, ông thành lập Institut Tout-Monde (Viện Toàn-cầu), quảng bá ‘’ bộ óc muôn hình vạn trạng của quần thể đại chúng trên thế giới ‘’.

 

... tới tạp chủng toàn-cầu

 Mở mắt chào đời, lớn lên ở Martinique giữa một ‘’quần đảo bao la’’ (nhan đề tập thơ đầu tiên của ông), nơi đã trải qua một thời gian dài nô lệ, Édouard Glissant sớm dòm xa, nhìn ngó không gian ở phía bên kia chưn trời. Nói cách khác, từ thủ phủ Fort-de-France sát vách châu Mĩ, ngụp mình trong môi trường Caribê pha trộn đủ loại màu da, phong hóa và ngôn ngữ, hòn đảo nhỏ chôn nhau cắt rún của ông, dưới mắt nhà thơ thấu thị như ông, không còn là một khoảng không gian chật hẹp, mà là nơi để ông dễ bề quan sát biến đổi tác động không ngừng trên quả địa cầu. Giúp ông nhìn đón trước rằng thế kỉ XXI sẽ là thế kỉ tạp chủngtoàn-cầu, không chỉ về mặt kinh tế, chánh trị, xã hội, mà về chính con người của chúng ta.

 Ngay trong các tác phẩm đầu tay, *thi ca như tập Trái đất âu lo (1954 - đụng độ giữa con người chinh phục và con người bị chinh phục), *cảo luận như cuốn Soleil de la conscience (Mặt trời tri thức - 1956 - « Sẽ chẳng còn có nền văn hóa nào mà không pha trộn với các nền văn hóa khác, khôngcòn có nền văn minh nào ngạo nghễ ngự trị trên đầu các nền văn minh khác, không còn có thi nhơn nào mù mắt trước biến động của Lịch sử. », *tiểu thuyết như truyện La Lézardetạp chủng toàn-cầu đà manh nha, khai mào cho đường hướng hoạt dộng và nội dung sự nghiệp văn học của ông. Trong bài phỏng vấn nhơn dịp xuất bản luận thuyết La Cohée du lamentin (Ủn ỉn loài heo biển – 2005), Èdouard Glissant giải thích và định nghĩa í niệm tạp chủng toàn-cầu do mình chủ xướng như sau: (Dòng sông quanh co - giải Goncourt 1958 - dân bản xứ Antilles chạm trán với tinh thần thực dân), các í niệm

 « Chúng ta liên hồi sống trong một thế giới khôn thôi đảo lộn, các nền văn minh không ngớt đụng độ với nhau, từng mảng lớn văn hóa sụp đổ xiêu vẹo và trộn lẫn với nhau, những ai hoảng sợ tình thế pha trộn này tự động trở nên quá khích. Tôi gọi nó là chaos-monde, là thế-giới-hỗn-loạn. Các xác tín duy lí không còn hiệu nghiệm nữa, tư tưởng biện chứng đà thất bại, còn tinh thần thực dụng thì chẳng có đủ năng lực thẳm thấu sự việc, cho nên các hệ thống í thức cổ hủ không làm sao hiểu nổi thế giới ngày nay. Tôi nghĩ rằng chỉ có loại tư tưởng không tin chắc ở quyền lực của mình, loại tư tưởng còn phập phồng run rẩy trong tâm trí, còn lo âu, lưỡng lự, e ngại, hoài nghi, mới nắm bắt được những đảo lộn đang diễn ra hằng ngày. Loại pha trộn, loại tạp chủng.

 Thế nào là tạp chủng? Tạp chủng là hình thái pha trộn nghệ thuật, hay pha trộn ngôn ngữ, hậu quả bao giờ cũng bất ngờ, không lường trước được. Một hình thức biến hóa liên tục mà không khiến con người phải mất gốc. Tạp chủng không chỉ áp dụng cho cơ thể mà còn cho văn hóa. Mà văn hóa là những bộ phận hết sức phức tạp hơn cơ thể. Chúng ta có thể biết trước được ít nhiều hậu quả của sự pha trộn, còn hậu quả của sự tạp chủng thì không. Lấy thí dụ các phương ngữ tạp chủng ở vùng Caribê, hay ở nhiều nơi khác, hậu quả của sự tạp chủng hoàn toàn thuộc loại khôn lường, đầy dẫy nhiều tiếng lóng, cách ăn nói, lời lẽ đùa cợt bất ngờ…Tạp chủng tạo nên một nền văn hóa mở và vô cùng phức hợp trên thế giới, và nó xâm chiếm mọi lãnh vực, âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, văn học, điện ảnh, ẩm thực, với một tốc độ chóng mặt… »

 

Văn nghiệp

 Đa dạng về thể loại (thi ca, cảo luận, tiểu thuyết, kịch), đa diện về đề tài (chánh trị, xã hội, văn hóa, lịch sử), với một văn phong *trữ tình trong thi ca, *hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết, *trong sáng trong cảo luận, văn nghiệp trên dưới 40 tác phẩm đã nâng Édouard Glissant lên hàng đầu các nhà văn da màu Pháp ngữ, sánh ngang với những Leopold Sédar Senghor (4) và Aimé Césaire (5). Chúng tôi, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên mỗi lần nghe thấy ông được xếp vào hàng nobelisable(s), nhưng rồi lại ngỡ ngàng khôn tả nghe tin ông hụt giải.

 Cuộc đời lắm khi tỏ ra bất cập nhường ấy. 

 

TRẦN THIỆN - ĐẠO

(Paris, 3-4/02/2011)

------------------------   

(1) Xem: Trần Thiện-Đạo, Giải văn chương Nobel 2010 - Mario Vargas Llosa - Nhà văn tái tạo thực tại Món nợ của Mario Vargas Llosa (Hợp lưu, số 112, tháng 1 & 2 năm 2011; Văn nghệ, số…, ngày…).

(2) Chỉ có một lần duy nhứt không tạo thành tiền lệ vào năm 2004. Xem: Trần Thiện-Đạo, Giải Renaudot 2004 - Phần thưởng cho một di cảo {của Irène Némirovsky, 1903-1942} (E-van, thứ ba 9/11/2004) và Định mạng của Irène Némirovsky (E-van, thứ ba 26/4/2005).

(3) Xem: Trần Thiện-Đạo, Chứng từ cuộc đời nô lệ (Hợp lưu, số 97, tháng 11 & 12 năm 2007; Văn nghệ, số…, ngày…).

(4) Xem: Pierre Brunel, Jean-René Bourrel, Frédéric Giguet, Léopold Sédar Senghor (Nxb Phụ nữ - 2006).

(5) Xem: Trần Thiện-Đạo, Một vì sao rụng – Aimé Césaire (1913-2008) – Thi nhơn bản sắc da màu (Hộp lưu, số 100, tháng 5 & 6 năm 2008; Văn hóa doanh nhân, tháng 07/2008).

(6) Tiêu biểu tâm thức này là bài thơ Negro (Lọ nồi) của ông:

I am a Negro:


Black as the night is black, 
Black like the depths of my Africa. 
I’ve been a slave: 
Caesar told me to keep his door clean. 
I brushed the boots of Washington. 
I’ve been a worker: 
 Under may hand the pyramids arose. 
I made mortar for the Woolworth Building. 
I’ve been a singer: 
All the way from Africa to Georgia
I carried my sorrow songs. 
I made ragtime. 
I’ve been a victim: 
The Belgians cut off my hands in the Congo. 
They lynch me still in Mississipi. 
 I am a Negro: 
Black as the night is black, 
Black as the dephts of my Africa. 


Tôi là một thằng Lọ nồi:


Đen như đêm đen,
Đen như châu Phi sâu thẳm của mình.
Tôi đã làm nô lệ:
Xêza bắt tôi quét dọn cửa nhà. 
Tôi lau chùi đôi ủng của Washington.
Tôi đã làm thợ hồ:
Dưới bàn tay tôi tháp đền xây cất.
Tôi trộn vữa dựng nhà Cao ốc Woolworth.
Tôi đã làm ca sĩ:
Suốt con đường dẫn từ châu Phi tới tận Georgia 
Tôi không ngừng u buồn ca hát.
Tôi hò reo điệu nhạc ragtime.
Tôi đã làm nạn nhơn:
Bọn Bỉ chặt tay tôi ở xứ Cônggô.
Ngưởi ta vẫn treo cổ tôi ở Mississipi.
Tôi là một thằng Lọ nồi:
Đen như đêm đen,
Đen như châu Phi sâu thẳm của mình.
 

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Tư 20246:57 SA(Xem: 960)
Sáng sớm Chủ Nhật, điện thoại gõ nhẹ, nhìn vào messenger thấy dòng chữ nhắn tin từ chú Khánh Trường: “Tập thơ in xong rồi. Ghé lấy nhé.” 30 phút sau tôi ghé nhà, chú chỉ lên kệ sách: “Chỉ mới in 3 cuốn. Cháu cầm 1 cuốn về đọc trước.” Mở trang đầu dưới dòng chữ THƠ KHÁNH TRƯỜNG là hàng chữ “Tặng cháu, Nina Hòa Bình Lê”. Cảm động. Bài viết này xin có lúc được gọi Chú, xưng cháu.
15 Tháng Tư 202410:16 SA(Xem: 883)
Vòng Tay Học Trò là tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa năm 1964. Tác phẩm được công chúng nồng nhiệt đón nhận và theo đó cũng hứng nhiều luồng ý kiến khác nhau, càng làm cho tác phẩm nổi tiếng hơn. Chính vì vậy, từ khi xuất hiện, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận trong giới chuyên môn và công chúng độc giả, Hàng chục năm sau, lúc chúng tôi còn nhỏ, chưa đọc tác phẩm đã thuộc tựa đề vì Vòng Tay Học Trò gắn liền với tên tuổi tác giả. Nói đến Nguyễn Thị Hoàng người ta nhớ đến Vòng Tay Học Trò.
07 Tháng Hai 20243:34 SA(Xem: 2830)
Khi tìm đọc văn học chiến tranh (giai đoạn 1954-1975) tôi bắt gặp rất nhiều lần lời giới thiệu ngắn tên tuổi, và các tác phẩm của nhà văn Nguyên Vũ. Kể từ đó, tôi luôn tìm Nguyên Vũ để đọc, song dường như không có tác phẩm nào của ông được đưa lên các trạng mạng, hay các thư viện điện tử. Hôm rồi, thật may mắn, đang nghiền ngẫm về cố nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, tình cờ tôi bắt gặp: Mây Trên Đỉnh Núi, truyện dài gồm 20 chương của Nguyên Vũ. Đây có lẽ là truyện dài đầu tay, và ít được nhắc đến của ông. Cũng định thử một vài trang, rồi lúc nào đó sẽ đọc tiếp, nhưng bập vào tôi không thể dứt ra được, và đọc một mạch ngay nơi làm việc. Sự hấp dẫn, sinh động ấy, không hẳn bởi chỉ nội dung, mà còn do bố cục, nghệ thuật đan xen những tình tiết câu chuyện...
05 Tháng Bảy 20227:53 CH(Xem: 7576)
Truyện Kiều ra đời đã hơn hai thế kỷ của đại thi hào Nguyễn Du đã làm say mê bao trái tim người đọc nhiều thế hệ kể cả trong và ngoài nước. Đã có rất nhiều cây bút phê bình, thưởng lãm hướng đến áng thơ tuyệt tác này. Hãy cùng khám phá tác phẩm vừa mới xuất bản của một nữ lưu xứ Huế – Ninh Giang Thu Cúc – viết về Truyện Kiều có tựa đề Đọc Kiều thương khách viễn phương NXB Văn hóa văn nghệ quý II năm 2019.
15 Tháng Sáu 20222:18 SA(Xem: 7049)
Nếu ai đã đọc "Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa", chắc chắn đều bày tỏ sự thán phục đối với tác giả, tôi cũng vậy. Tác giả NTV đã đem tấm lòng thành cùng với nhiệt tâm thu thập dữ liệu về các nhân vật nói tới trong sách, cùng với các hình ảnh ghi dấu cuộc đời bể dâu của họ. Tuồng như tôi thấy họ sống lại thêm một lần nữa. Thật vậy, khi nhìn thấy hình ảnh một nhà văn quen biết ra đi từ lâu, và qua lời kể chuyện của tác giả, tôi xúc động biết bao, tưởng chừng như người ấy vẫn ở đâu đó, chưa một lần vĩnh biệt.
18 Tháng Ba 202210:50 CH(Xem: 7629)
Cuốn To Our Grand Children with Love độc đáo ở chỗ là người cầm nó trên tay không phải là một độc giả mà chính là đồng tác giả với hai vị chấp bút: Giáo sư tiến sĩ Nguyễn-Lâm KimOanh và luật sư tiến sĩ Lưu Nguyễn Đạt. Vì thế, đây không phải là một “cuốn sách” theo định nghĩa, hình thức và nội dung thông thường. Tiểu đề của tập sách này cho thấy đây là một “công trình”, một sự hợp tác giữa thế hệ ông bà và thế hệ các cháu, bắt đầu từ ông bà, những người từng sống qua nhiều chặng đường lịch sử và địa lý, muốn kết nối với thế hệ Việt Nam trẻ, sinh trưởng và lớn lên ở Hoa Kỳ.
18 Tháng Ba 20229:06 CH(Xem: 7219)
Tuyển tập II ra mắt vào tháng 2 năm nay, gồm chân dung của 15 văn nghệ sĩ và nhà văn hóa: Nguyễn Tường Bách và Hứa Bảo Liên, Hoàng Tiến Bảo, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Dohamide, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư và Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, John Steinbeck cộng thêm phần phụ lục Con đường sách Sài Gòn và Câu chuyện đốt sách.
07 Tháng Ba 202212:49 SA(Xem: 7483)
Tuyển tập II - Chân dung văn học nghệ thuật và văn hóa" là một công trình mới của Nhà văn Ngô Thế Vinh, giới thiệu 15 văn nghệ sĩ và nhà văn hóa thành danh thời trước 1975 ở miền Nam Việt Nam. Những tác phẩm, chân dung và chứng từ trong tuyển tập này minh chứng cho một nền văn nghệ nhân bản, năng động và đột phá đã bị bức tử sau biến cố 30/4/1975. Do đó, tuyển tập là một nguồn tham khảo quý báu về di sản của nền văn nghệ và giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa.
27 Tháng Mười Hai 20217:22 CH(Xem: 8646)
Tôi vẫn có thói quen chờ đợi vào những ngày giờ trước Giáng Sinh. Hồi còn bé ở Sài Gòn, bao giờ thì “điều gì đó” dẫu lớn hay nhỏ cũng đến, khiến lòng mình rộn ràng. Lần cuối cùng tôi biết háo hức chờ đợi là ngày mở bao thiệp giáng sinh chàng gửi với tấm thiệp in hàng chữ: “It’s time for you to make amends....” và chữ ký dưới “Merry Xmas” như một lần nữa xác nhận anh đang “break up” với tôi. Hôm nay, một ngày trước Giáng Sinh, trời mưa dầm dề cả ngày, mở cửa lấy xấp thơ vào nhà mắt vẫn cay khi giục các bao thiệp giáng sinh vào sọt rác, tôi thấy có bao thơ lạ từ xứ lạ. Mở bao bì, bìa tập thơ màu xám trắng như nỗi buồn trong cơn mưa khiến mắt tôi dừng lại ở dòng tựa: Chiều Tình Yêu.
15 Tháng Tám 202110:45 CH(Xem: 11213)
Cuốn thơ song ngữ có tên là “Các Bài Thơ Việt Nam Khó Quên – Unforgettable Vietnamese Poems” của Hương Cau Cao Tân đến với tôi vào những ngày đầu Xuân giữa mùa đại dịch. Sách khá dầy, khoảng 300 trang, trình bầy trang nhã, mỹ thuật, những trang thơ Việt-Anh in song hành dễ dàng đối chiếu. / Sách gồm 100 bài thơ Việt và 100 bài thơ chuyển dịch sang Anh ngữ. Tác giả đã chọn ra 16 nhà thơ nổi tiếng và lựa ra những bài mà tôi chắc rằng nhiều độc giả đã từng ưa thích. Tôi tạm chia các nhà thơ ra từng thời kỳ để dễ cảm nhận những dòng thơ này: Thời kỳ Văn Nôm: Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương. / Thời kỳ Tiền Chiến: Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp, T.T. Kh., Vũ Đình Liên, Xuân Diệu. / Thời kỳ Kháng chiến: Hữu Loan, Quang Dũng. /Thời kỳ Đất nước chia đôi: Nguyên Sa, Phùng Quán.