- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Những Người Bạn Của Một Thời

21 Tháng Sáu 200912:00 SA(Xem: 96591)

Trịnh Cung

 

Khi đó, vào một năm tôi không nhớ rõ, thời trước 75, một người bạn báo cho biết Trịnh Công Sơn đã vào Sài gòn. Buổi chiều bọn tôi dự tính đi thăm Trịnh Công Sơn rồi đi ăn ở đường Nguyễn Huệ, nên Thi vợ tôi mặc một mini robe khá mỏng manh. Bình thường thì chẳng có vấn đề gì vì váy ngắn đương là mode của Sài gòn, vấn đề là trời mưa, không to, nhưng đủ rột tí tách nhiều chỗ trên căn gác gỗ của Trịnh Công Sơn. Tất cả đều ngồi bệt trên sàn gỗ, bao quanh gia chủ. Tôi hạ thổ đối diện Trịnh Công Sơn, bà vợ tôi tuy hồi tiểu học học trường các sơ, đã quen với váy, nhưng đáp xuống cạnh ông nhạc sĩ đeo kính gầy ốm mà không hở hang nhiều quá, cũng hơi vất vả. Căn gác khá đông người trong đó có Trịnh Cung ngồi gần Trịnh Công Sơn. Có thể nói không sai lắm, vì giao thiệp với anh chàng nhạc sĩ này, tôi quen biết khá nhiều danh tài xứ Huế.

 

 Có thể đối với người khác Trịnh Cung nhiều lời hơn, còn đối với tôi ông bạn này có vẻ ít nói, gìn giữ. Tôi không quan tâm vì hay tôn trọng cá tính và quá khứ của bạn bè, đôi khi đến độ ơ thờ khó thương. Nhưng cuộc đời có những biến cố làm con người trở thành xa cách hoặc thân thiết với nhau hơn, thí dụ như việc động viên trong thời chiến tranh. Tôi để ý thấy, để ý thôi, không phê phán, là ông bạn nhạc sĩ tình ca và tâm tình phản chiến và bạn bè vây quanh của anh, thường hay tránh né đời lính, kiểu ông Bill Clinton bên kia đại dương. Nhưng khi gặp Trịnh Cung mặc đồ sinh viên sĩ quan Thủ đức, tôi bắt tay anh thân thiết hơn trước: bây giờ là đồng đội, cùng một phía rồi. Nhưng ra trường, anh ở đơn vị nào và ở đâu, tôi không hay biết, cho đến khi cả hai được tha khỏi trại cải tạo tập trung. Buổi sáng cả hai đứa thường đến câu lạc bộ của Hội Trí Thức Yêu nước, mua một ly cà phê giá rẻ, vài ba điếu Hoa Mai hay Đà lạt, thuốc lá tồi nhất nhì thế giới, mang ra bàn nào có bạn bè ngồi, để trao đổi tin tức hậu hiện đại, xin lỗi tôi dùng lộn chữ, hậu cải tạo. Sở dĩ có vấn đề đó là do sau khi nghe xướng danh tên mình được tha, đến trước ngày được ra khỏi trại, cán bộ gọi lên lớp lần chót, phát giấy yêu cầu cải tạo viên tố cáo những âm mưu phản động, dự trù trốn trại... được biết. Cán bộ tuyên bố đó là dịp tốt “để lập công với cách mạng”. Tôi thì giản dị lắm, nắn nót hàng chữ sau, cho lâu lâu một chút: “Tôi không biêt vì nếu biết đã tố cáo ‘từ lâu’ rồi”, (dĩ nhiên là tôi xạo ke; xạo ke và dối trá là những bài học nhập môn xã hội chủ nghĩa) là xong bài thu hoạch. Ngồi đợi cán bộ thu bài, tôi cũng như nhiều bạn khác nhìn một cách gờm nhớm một vài anh cắm cúi viết, có anh viết kín trang giấy chưa xong... Ăng-ten chính cống và ác ôn đây rồi... Ngày mai được về rồi, hôm nay còn tố cáo, bỏ bom này nọ...

 

 Bây giờ mới tới mục chót giành cho những người sắp được tha về: cán bộ phát cho từng người một tờ cam kết in sẵn, chỉ việc ký tên là xong. Cam kết “động viên vợ con đi kinh tế mới” cùng mình... Cái này thì gay go, không cười được. Trong thời gian cải tạo vừa qua, tôi đã có nhiều dịp đi qua vùng kinh tế, đàn bà đầu bù không chải quần áo bạc phếch, trẻ con tóc vàng hoe vì nắng không biết lớp học là gì, con gái không có vú như các cô đi Liên Xô về (theo Dương Thu Hương, phụ nữ đi lao động đi học tại xứ sở này ăn uống thiếu thốn, xẹp cả vú), tôi đã “ hạ quyết tâm” không để vợ con đi kinh tế mới. Tôi nghĩ một chút rồi cầm bút ký tờ cam kết, cán bộ chuyên môn chơi chữ để đánh lừa nhân dân, tôi sẽ bắt chước, đại khái “tôi đã động viên ba ngày ba đêm vợ tôi đi kinh tế mới, nó nhất định không nghe, bảo ai cam kết thì người đó đi đủ rồi. Tôi không thể đánh bắt nó nghe theo được vì chính sách của Cách mạng là cấm đánh vợ con...

 

 Một hôm chưa kịp đặt ly cà phê xuống bàn câu lạc bộ, Trịnh Cung đã than: “Huyện ủy quận 4 đột nhiên đỏ rực lên, dọa cải tạo nào không trình diện đi nông trường trong Đồng Tháp, sẽ cho Phường đội (lực lượng võ trang của Phường) đến “động viên tích cực” (cho cầm súng áp tải người phải trình diện nhưng người đó phải tuyên bố “tôi tình nguyện”...). Tôi hỏi: “Họ có đụng chạm gì tới vợ con không?” Trịnh Cung trả lời: “Chỉ cá nhân cải tạo “vê” thôi. Sáng mai tôi phải trình diện sớm...”. Vài tuần sau, tôi mới gặp lại ông bạn này, vẫn ở câu lạc bộ, mặt phơi nắng nhiều đỏ bừng, tôi hỏi thăm và Trịnh Cung tường thuật đại khái: Phải ngồi đuôi tôm gần một ngày mới vào đến nông trường trong Đồng Tháp. Ngày đầu tiên, vừa ra đến nơi làm việc, bọn tôi đã dội rồi: nước ngập ngang ngực và đỉa lúc nhúc, đa số chỉ lao động được vài tiếng là leo lên bờ gỡ đỉa, phi thuốc lào và đấu láo um xùm. Những ngày kế tiếp cũng đại khái như thế. Bây giờ bọn tôi đâu phải cải tạo viên, mà là công nhân nông trường, đâu có tuân lệnh răm rắp, thích thì làm không thích thì nghỉ. Cán bộ than: “Các anh lao động như thế thì làm sao chấm công. Cuối tháng dám không đủ trả tiền cơm ăn lắm”. Mà quả thực đúng như vây. Ban kế toán nông trường không biết tính sao, đám công nhân gốc cải tạo bèn bỏ tiền túi ra góp tiền gạo, và nhân tiện có những chuyến đò ra chợ, nhờ mua thêm thức ăn, đường và cà phê, tối đến mở quán tưng bừng, bồi dưỡng cho bầy muỗi đói... Cũng sống được qua ngày...

 

 Các sĩ quan cải tạo về của Quận “Đỏ” thấy đời sống nông trường như thế, là cũng sống được. Nhưng bản thân nông trường thì lỗ vốn to, năng xuất bằng không, phải giải tán sau sáu tháng. Trịnh Cung được trả về Sài gòn với vợ con và cầm cọ vẽ trở lại, và bắt đầu nổi tiếng lần thứ hai (trong cõi hội họa Bắc kỳ). Thời kỳ “đổi mới” đến, dân Sài gòn dễ sống hơn thời kỳ hơn mười năm “tiến mau tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội” (1975 – 1986), dân Việt kiều được dễ về thăm quê hương hơn xưa và khi ra đi, hay mua “một chút gì để nhớ một chút gì để quên...” (Phạm Duy). Với thành phần có học, tranh vẽ và sơn mài là tốt nhất: những tác phẩm của Nguyễn Trung, Trịnh Cung, vợ chồng Hồ Thành Đức , Đằng Giao... và của Trịnh Công Sơn nữa, dễ dàng leo thang vượt mức $1000. Trịnh Công Sơn có lần nói với tôi: “ Tôi sống nhờ tài vẽ vì có ai trả tác quyền nhạc đâu. Những ông bạn Việt kiều đến chơi, khi về muốn mua tranh tôi kỷ niệm, tôi nói bao nhiêu trả bấy nhiêu. Vui thôi”. Đến lúc đó bọn tôi từ Mỹ về quê hương cũ (Mỹ là quê hương mới) để thực hiện cái tạm gọi là Tân Đông du, cố làm cho lớp trẻ hai miền Nam Bắc thôi nhìn về Liên Xô, các nước Đông Âu như các nước để du học, đổi chiều nhìn qua Thái bình dương tới Canada và Hoa kỳ. Đó là một công tác tự nguyện, thiện nguyện, “diễn tiến hòa bình”... gọi là một chút giúp đỡ quê hương cũ Việt nam đang sống trong lạc hậu, chậm tiến. Một thượng nghị sĩ của tiểu bang (đã chiến đấu hai nhiệm kỳ VN) và một số viên chức Bộ Ngoại giao chỉ giúp đỡ về phương diện giấy tờ. Còn ngoài ra, tự lo lấy, như các hội thiện nguyện khác ở Hoa kỳ.

 

Vì công việc kéo dài trong thời gian, mấy đứa con thuê nhà ở Sài gòn cho đỡ tốn (không dùng người ngoài vì tiền đâu mà trả lương). Khi hai vợ chồng tôi về, không ngạc nhiên thấy Trịnh Cung rồi cả vợ tới thăm vì Du, đứa con thứ tư, đã cho biết có liên hệ tình cảm với M., đứa con gái út của Trịnh Cung. Hai đứa có thể tiến tới hôn nhân bất cứ lúc nào. Điều duy nhất làm tôi ngạc nhiên là nhan sắc và y phục của cháu M. Tuy là con gái xứ Huế nhưng không hề mảnh mai. Cháu đẹp khỏe mạnh, ăn mặc như một cô gái Tây phương. (M có một cô chị lấy chồng Việt kiều Mỹ, cô cháu này cho tôi biết: cháu ở Sài gòn lớn, lấy chồng ở Sài gòn nhỏ...) Hai vợ chồng tôi ưng thuận cô “chuẩn con dâu” xinh đẹp M. này đến độ đã có một thời đi chơi ăn uống, đưa các sinh viên ra Hà nội để được phỏng vấn, cũng mang cháu M. theo. Chỉ cần đợi hai đứa chính thức ngỏ ý muốn lấy nhau, là Trịnh Cung và tôi tổ chức đám cưới liền. Nhưng đợi hoài không thấy đôi trẻ nói năng gì. Sau cùng đôi trẻ xứng đôi vừa lứa, môn đăng hộ đối ấy cũng lấy vợ lấy chồng, nhưng “chàng” lấy một cô dược sĩ gốc Huế mới ra trường, con một người bạn tôi lúc trẻ có gia nhập nhóm Thái độ, “nàng” lấy người yêu đã cũ của mình. Thế là xong, gọn ghẽ và có hậu một mối tình xuyên đại dương..

 

 Một buổi tối lại thăm Trịnh Cung tại nhà hai tầng trong một hẻm gần tượng Phù đổng Thiên vương, tôi ngạc nhiên không thấy treo tranh. Hỏi, được trả lời là bán hết rồi. Nhân tiện, tôi hỏi Trịnh Cung sao chưa HO đi Mỹ, được trả lời là không hội đủ điều kiện 3 năm cải tạo, còn thiếu vài tháng. Tôi ý kiến ngay: 6 tháng nông trường kinh tế mới để đâu, sao không cộng vào? Trịnh Cung: Nông trường giải tán, cán bộ được phân tán khắp nơi, biết đâu mà tìm... nhờ chứng nhận... Tôi bèn đi một đường an ủi như sau, (đúng sai các ông bạn họa sĩ cứ việc cho ý kiến): Thôi, bạn ở lại Việt nam, dễ bán tranh. Sang Mỹ làm họa sĩ Mỹ phải cạnh tranh với quốc tế, không phải ai cũng nổi lên, bán được tranh đâu... Thôi, bạn chịu khó xin tòa Đại sứ Mỹ cái visa du lịch, thăm con gái và bạn bè... Dân Mỹ quí nhân tài (và gái đẹp), bạn cứ đem xấp hình chụp tranh của bạn cho họ coi, chắc là được visa. Và mọi sự đúng như vậy. Trịnh Cung kể: Vừa mở xấp hình tranh ra, là tất cả bỏ việc xem hình, chẳng phỏng vấn đến một câu...

 

 Vậy là họa sĩ Trịnh Cung đi Mỹ, thuyết trình ở nhiều đại học Califonia về hội họa đương đại Việt nam. Email hỏi thăm có khỏe không, email trả lời vắn tắt: Khỏe. Sau khi Trịnh Cung mỹ du phiêu lưu ký, tôi còn ở VN thêm một thời gian để được đọc một bài phỏng vấn ngắn Trịnh Cung trên báo Tuổi trẻ. Hỏi: Tại sao họa sĩ hay vẽ phía sau của phụ nữ? Trả lời: “Tại tôi thích cái đằng sau của họ...”. Tôi cũng thích cái đằng sau của phụ nữ như Trịnh Cung vậy, đẹp và nhiều lý thú. Chắc nhiều ngôi sao điện ảnh Mỹ cũng nghĩ như vậy nên hay khoe cái mặt sau với khán giả, như Kim Basinger, Charlize Theron... Có lần tôi xin Trịnh Cung một hình làm bìa, anh gửi cho tôi, dĩ nhiên là tranh mặt sau một phụ nữ mầu xanh da trời đậm nhạt, nhan đề là “Trăng”, ai muốn hiểu hay tưởng tượng tới đâu, tùy ý. Đáng tiếc là cuốn sách chưa ra đời được.

 

 Từ đây trở đi những gì tôi được biết về ông bạn họa sĩ này, đều là do bạn bè xa gần kể lại, kể cả những tin đồn (giá trị các tin đồn: xin đọc phụ lục dưới đây). Sau một thời gian cư trú khá dài ở Mỹ, nghe đồn Trịnh Cung phát hiện ra mình bị ung thư, như bà vợ trước đây. Vào bệnh viện chữa trị một thời gian thì bác sĩ chê, trả về cho chết ở nhà. Với ông họa sĩ này, Mỹ là đất tạm dung, ông bay về VN, nhưng không sống ở Sài-gòn nữa mà ra Nha Trang sống với mẹ già. Bà cho uống thuốc đông y gia truyền kinh, thượng, Chăm chi đó, Trịnh Cung khỏi bệnh và vì vợ cũ đã chết, (vẫn tin đồn)) ông lấy một cô gái trẻ (năm nay mới được 28 tuổi), lão bạng sinh châu thêm một đứa con, làm giới quần hào tóc bạc hai bên bờ Thái bình dương phục lăn! Như thế là hơn lão trượng Phạm Duy rồi...

 

 Đã thế ông còn tạm bỏ cây cọ để cầm bút viết một bài ký về bạn thân Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn thì thiếu gì người viết về, thêm một Trịnh Cung nữa đâu có sao, nhất là nhạc sĩ này đã chết. Nhưng người ta viết không sao, Trịnh Cung viết gửi đăng trên báo điện tử “Da mầu” ở “giáo xứ” Bolsa, thì lại khác. Trịnh Cung vốn hiền lành (hình như họa sĩ nào cũng hiền lành, dữ như Van Goch cũng chỉ cầm dao cắt tai... mình thôi), chỉ viết một bài ký mà gây tranh luận trong nước ngoài nước ồn ào, um xùm. Tôi đang thời kỳ hồi phục sau một cơn bệnh bốn tháng, lúc tỉnh thì túi mật đã biến mất (theo Thảo Trường, khi bị cắt túi mật rồi, anh không còn sợ bất cứ ai bất cứ điều gì! Mật đâu còn để “sợ mất mật”). Theo dõi cuộc tranh luận một cách khá lơ đãng, tôi cho rằng tại Trịnh Cung dùng từ không được chính xác: Trịnh Công Sơn chỉ có như mọi người một “thái độ hay lập trường chính trị” mà thôi, không có “tham vọng chính trị” chi hết. Sự kiện anh trốn lính trước 75 dễ cắt nghĩa lắm: người anh nhỏ bé như thế không thể “apt” cho đời lính nhưng những toán bắt lính hoạt động khắp nơi làm anh sợ, hay tự bản thân anh không thích làm lính (bình thường ra một thanh niên có thể thích hay không thích đời lính, thích thì nhập ngũ không thích thì ở nhà, mỗi khi ra đường nhìn trái phải trên dưới xem có toán chặn xét hay không).

 

 Còn việc Trịnh Công Sơn cao hứng rủ Trịnh Cung ra bưng theo VC , là việc cao hứng nhất thời của tuổi trẻ, nói để mà nói cho vui miệng thôi, có ông nào “nhẩy núi” như Hoàng phủ Ngọc Tường đâu (mà ông này chỉ vì bị Công an bên này rượt bắt vì tham gia đấu tranh của Phật giáo miền Trung, hết đường chạy đành ra bưng vậy). Thí dụ khác như hai ông bạn đã nhận làm đại diện cho phía Mặt Trận là Bảo Cự và Sâm Thương, đã từng đến nhà tôi thuyết phục hãy “trở về với dân tộc” (nghĩa là theo Mặt Trận), tôi đều khước từ. Viện lý đằng sau lưng Mặt Trận là Cộng sản Bắc kỳ, đằng sau Cộng sản Bắc kỳ là Trung Quốc và vân vân. Cứ giữ lập trường như bọn tôi, mới thật sự là dân tộc. Vậy phía nào giữ lập trường phía đó, và cả hai sẽ vẫn là bạn tôi, dù tôi biết mấy ông phía đó không vui vẻ gì khi thấy tôi không chết trận như một lính “ngụy”, chết bệnh như một cải tạo viên trên rừng núi vô danh, cho “đáng đời một kẻ lầm đường lạc lối!...” (nhận xét của Lữ Phương)

 

 

Phụ lục Giá trị của các tin đồn

 

 Tôi xin kể một chuyện có thật để chứng tỏ giá trị rất là tương đối của các tin đồn. Tin đồn tuy thiếu xác thực thật, cần kiểm chứng lại, nhưng tác động của nó đôi khi lại mạnh mẽ, cụ thể. Thí dụ như tình bạn giữa Trần Phong Giao, thư ký tòa soạn tạp chí VĂN ở Sài gòn và tôi. Dù có resume khác hẳn nhau, hai đứa vẫn trở thành bạn văn và ăn nhậu lai rai trong nhiều năm, và tưởng rằng thứ “đổi đời” do Cộng sản miền Bắc mang lại, cũng không cắt đứt được. Trong thời kỳ 10 năm cán bộ bắt dân miền Nam ăn độn và ăn đói như miền Bắc, thủ tướng Phạm văn Đồng gọi là “san bằng cách biệt giữa hai miền”, có những khi Trần Phong Giao buôn củi, phân phối cho vợ tôi bán lẻ lấy lời nuôi con, và khi tôi được tha khỏi trại cải tạo tập trung (các diện khá nhẹ hơn như hạ sĩ quan VNCH chỉ phải học tập “tại chỗ” ba ngày thôi, ngay nơi mình ở), Trần Phong Giao đến thăm, và câu thứ hai là hỏi tôi còn giữ được nhiều lưỡi dao cạo cũ không, để theo anh ra chợ làm nghề chẻ rau muống thuê cho các bà hàng quà, kiếm cũng được gạo ăn... Cứ cà rịch cà tang như thế, bữa đói bữa no bữa bobo khoai sắn trong chín năm, vợ tôi được phép mang các con sang Mỹ đoàn tụ với gia đình... của nàng ở Seattle, tôi được đi theo vì thuộc diện bảo lãnh “ăn theo” vợ (thân nhân phía tôi ở miền Đông không ai chịu ký bảo lãnh, đúng như lời phán của mấy ông thầy tử vi: tôi mạng không vô chính diệu (thế là làm sao không ai cắt nghĩa) cung thê tử rất tốt, bạn bè cũng thế, cung anh em thì đầy đố kỵ, bố chết sớm và nghèo, mẹ thì con yêu con ghét..) .

 

 Không lâu cho lắm, nghĩa là dòng nước có mầu ghê rợn của con lạch chưa chảy nhiều cho lắm dưới gầm cầu gần nhà Trần Phong Giao, tôi đã trở về VN trong một phái đoàn văn hóa giáo dục. Tôi đã được biết hai điều: một là căn nhà gỗ năm xưa của Trần Phong Giao đã bị cháy, nhưng đã được Hội Nhà Văn thành phố, hay Thành Ủy tôi không rõ, giúp đỡ xây lại bằng gạch khang trang hơn xưa, hai là ai chứ tên nhà văn Thế Uyên đừng có bước chân đến nhà Trần Phong Giao... Tôi hỏi một bạn văn Sài gòn lý do thì anh chỉ nói ngồi bất cứ đâu, nhắc tới Thế Uyên, là Trần Phong Giao chê nhiều, đến nỗi anh khuyên tôi đi đâu thì đi, đừng tới thăm bạn cũ này. Tính tôi vốn tò mò, một phần ưa truyện lạ (chính vì thế sau 30 tháng 4 tôi đã ở lại xem chế độ cộng sản đích thực tròn méo ra sao, khi biết nó méo thì như một lời thơ xưa “Đến khi tôi hiểu thì tôi đã...”) nên một buổi sáng mượn một scooter tôi tới hẻm quen thuộc gần cây cầu đường Trưng vương. Quả thực nhà mới của Trần Phong Giao là nhà gạch khang trang hơn nhà gỗ cũ. Nghe đứa con hô bố có khách, Trần Phong Giao tà tà áo ba lỗ quần xà lỏn hai lỗ đi ra (áo ba lỗ là theo lối gọi Bắc kỳ 75, quần xà lỏn hai lỗ là do tôi (Bắc kỳ 54) bắt chước cho “văn minh tiến bộ”) . Nhìn thấy tôi anh toan quay vô không tiếp thì một người khách bước vào. Trần Phong Giao bắt tay người đó, mời ngồi xuống bàn và bắt đầu nói chuyện. Coi như không có tôi ngồi lù lù trước mặt. Ông khách có vẻ ngượng, giơ tay mời chủ nhân nói chuyện với tôi trước, tôi cười từ chối, nói: “Mời hai anh cứ tự nhiên, tôi hút xong điếu thuốc này, là về nơi rất xa đây”. Tình huống có vẻ hơi khôi hài vì rõ ràng ba người mà cứ giả vờ có hai. Tôi dụi diếu thuốc vào gạt tàn, đứng dậy để danh thiếp địa chỉ tôi ở Mỹ xuống bàn, Trần Phong Giao lấy tay đẩy ra, không nhận, nói: “Tôi không có kính, chả đọc được!” Tôi cười bắt tay từ giã ông bạn không quen kia, Trần Phong Giao quay mặt đi, im lặng nhìn bức tường trước mặt. Tôi cũng im lặng đẩy xe ra khỏi hẻm, ra về, chấm dứt một tình bạn cố cựu.

 

 Về Mỹ một thời gian tôi nghe tin Trần Phong Giao đã chết ở nhà con gái, trước khi tôi hỏi được bạn bè nội địa lý do tại sao ông bạn này bỗng dưng ghét tôi như vậy. Chắc lại nghe các tin đồn Thế Uyên là CIA, CIB, là thân cộng, thân Tầu, thân vân vân... Có một tạp chí miền Đông hỏi một người thân của tôi mới sang Mỹ, là có phải Thế Uyên thân cộng không, ông này là một HO, đã trả lời: Thân cộng cái gì... Nó chính là Cộng sản...! Làm tôi sau này khi phải “làm việc” với Công an nội địa, đã hỏi đùa: Các anh coi dùm sổ hộ tịch của Đảng, xem có tên tôi không mà nhiều hội đoàn hải ngoại cứ chụp nón cối cho tôi hoài hoài...

 

 Tin đồn thường là thế, nên tôi chỉ nghe bằng một tai và khi có dịp là hỏi lại chính đương sự. Dù rằng đôi khi gặp “tai nạn” như trường hợp Trần Phong Giao vừa kể trên. Và đó không phải hiếm có trong cuộc đời dài và phức tạp của tôi. Gần đây là trường hợp Võ Phiến, một trong những bậc huynh trưởng của tôi. Tôi nghe đồn trong bộ văn học miền Nam 54-75, anh có chê tôi làm tan vỡ gia đình người khác, làm tôi thắc mắc vì từ khi lớn lên tôi vẫn nghe theo lời khuyên cổ xưa: Trai tân gái góa thì chơi, Đừng nơi có vợ đừng nơi có chồng, sau hiện đại hóa bằng lời khuyên của Papillon, tù chung thân khổ sai đã vượt ngục đi qua nhiều nước: Trong cõi giang hồ, muốn yên ổn, đừng có tán vợ bạn hay em gái bạn... Vậy làm gì có mục tôi làm tan vỡ gia đình người khác, dù bạn bè có vợ xinh đẹp cũng nhiều. Vậy lại tin đồn thôi.

 

thế-uyên

tháng 6, 09
seattle, usa

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Năm 201212:00 SA(Xem: 105539)
T ôi ở ngay Montreal mà cũng không biết là nhạc sĩ Lê Trạch Lựu cùng ở chung thành phố với tôi. Cho tới khi đọc được bài viết về ông trên báo Thanh Niên Online ở trong nước tôi mới biết ông là đồng…tỉnh với tôi! Ông là tác giả của bản nhạc “Em Tôi” mà hầu như mọi người đều biết. Ấm ớ về nhạc như tôi mà lúc nào cũng có thể nghêu ngao em tôi ưa đứng nhìn trời xanh xanh / mang theo đôi mắt buồn vương giấc mơ được. Hứng từ nàng…nhạc nào đã khiến ông sáng tác được bản nhạc bất hủ này vào năm 1953?
27 Tháng Tư 201212:00 SA(Xem: 119784)
N ăm đầu tiên Sài Gòn sập, tôi không nhớ được TV, Radio, và báo chí, có những gì nói những gì. Cả ngày quần quật, hết cái loa phường thét vào tai lại đến học tập chính trị ở trường, hội họp ở tổ dân phố và đi mít tinh (là cái gì cũng chưa hiểu hết). Ngoài đường thì vù vù xe Honda với băng đỏ trên cánh tay của bọn cách mạng 30, và cờ đỏ bán tràn lan tứ phía. Đêm về, cả nhà nhìn nhau lặng lẽ.
26 Tháng Ba 201212:00 SA(Xem: 102777)
K hánh Ly từng viết: “... một dĩa cơm chia hai, một điếu thuốc cùng hút, một ly cà phê cùng uống. Chia nhau nằm ngủ trên những tờ báo nhàu nát trải dưới đất. Tình bạn, tình anh em nẩy mầm từ đó. Quán Văn cái tên dễ nhớ và dễ thương...Mỗi người tới tùy tiện tìm chỗ ngồi trên cái nền xi-măng bỏ trống ngổn ngang gạch vụn và cỏ dại. Đó là nơi gặp gỡ đẹp nhất của một thời tôi còn trẻ...” 
21 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 99994)
K hi tầu đi ngang qua tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi thấy ngài vẫn đứng uy nghiêm, tay cầm kiếm chỉ xuống dòng sông. Tôi chợt nhớ đến lời nguyền của ngài “Nếu không thắng giặc Nguyên, ta sẽ không trở về con sông này nữa”. Bất giác, tôi tự nói thầm nếu không tìm được Tự Do, chắc mình cũng không thể trở lại được con sông này.
25 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 105527)
... T ôi cảm thấy mình như Từ Thức trở về, không còn ai biết mình, nhớ ra mình là ai, đôi khi lại còn bị đối xử một cách bất thường. Những lưu luyến với quê hương càng ngày càng như những rễ cây khô cố bám víu vào nền đất phù sa hai bên bờ sông, chưa biết ngày nào bị nước cuốn trôi đi...
01 Tháng Mười Hai 201112:00 SA(Xem: 102830)
A nh đã lớn lên với những bát phở ở Hanoi, sau khi đất nước chia đôi, anh lại trưởng thành với những bát phở ở Saigon. Anh ăn phở gần như hàng ngày, tại những quán phở có tên tuổi như Tàu Bay, 79, Tương Lai, phở Hòa, Hòa Cựu... hay những xe phở đầu đường không ai cần nhớ tên và cũng chỉ gọi bằng những biệt danh, như các gánh phở ngày xưa.
05 Tháng Mười Một 201112:00 SA(Xem: 116268)
N hà thờ vắng vẻ. Những hàng ghế trống im lìm. Chúng tôi đứng cạnh nhau sau hàng ghế cuối, tôi bảo nàng nhìn lên tượng Chúa và im lặng. Rất trang trọng, mấy phút sau tôi hỏi nàng, Kim có biết tôi vừa nói gì với Chúa không. Nàng gật đầu, mắt long lanh ướt. Tôi thầm cám ơn Chúa và nắm tay Kim rời nhà thờ. Tôi đã cầu hôn nàng như thế đó.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 118313)
Đ ó là Tetbury, một thành phố thơ mộng nằm về phía nam Luân Đôn khoảng 200 cây số (?).Tôi chỉ nhớ phải mất ba giờ lái xe để đến nơi. Thành phố nhỏ, những con đường dốc, hẹp. Nhà với mái xuôi nhọn hoắt, nằm liền nhau, phần lớn mở shop bày bán đồ cổ, quán ăn uống, tiệm cà phê.
02 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 100843)
... N hững người mang gia cảnh như cô, và ở nước Mỹ này thì đấy là gia cảnh bình thường, họ không hay có máy điện tóan, và không luôn địa chỉ liên mạng. Hộp thư mang đầy những tin buồn từ chủ nợ, từ nhà trừng giới, tù ngục, bệnh viện tâm thần, những đứa con hoang, tòa án ly dị.
01 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 94978)
M áy bay hạ cánh ở phi trường Liên Khương, trời Đà Lạt mát lạnh với buổi sáng sớm còn mờ hơi sương. Người đàn ông ngồi bên cạnh trên máy bay hẹn tôi sẽ lấy vé. Rồi anh biến mất trong dòng người. Tôi điện thoại cho Hà đến đón, xe honda 100 phân khối Hà phóng như bay trên con đường lộng gió, hai bên đồi thông bạt ngàn, hoa dã quỳ vàng rực rỡ.