- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Paris Và Metro

11 Tháng Mười Một 200812:00 SA(Xem: 25891)

w-final3-hopluu92-182_0_94x300_1Buổi chiều về đến nhà sau hơn hai tuần đi xa, hàng cúc sát chân bức tường đá trước thềm nhà nở vàng đẫm, thơm ngát cả buổi chiều, như có ai rót rượu cúc xuống thềm mừng người trở lại. Nhớ khi đi thược dược đang nở, cúc mới ra nụ như những khuy áo nhỏ. Bây giờ những khóm thược dược đã chín nẫu, cúi gập xuống vì giá tháng mười nhường chỗ cho hoa cúc.

Bao giờ cũng vậy, đi xa về nhìn lại căn nhà của mình sao thấy nó ấm áp, thân mật thế! Mở hai cánh cửa ra là bước vào lại cái thế giới đời thường, rất riêng tư của mình. Bao nhiêu việc sẽ phải làm sau cánh cửa! Cứ để đó, từ từ, cái âm vang của đường xa còn tung những hạt bụi lạ trong lồng ngực.

 

Những chuyến metro chật ních người suốt ngày. Thả xuống, nhận vào mỗi trạm những mầu da, ngôn ngữ, vóc dáng khác nhau. Họ hối hả chen vai, lấn chỗ, im lặng, lạnh lùng, thân thiện, cho một nụ cười lạ, một nét lạnh tanh trên mặt, nhìn nhau đăm đăm, ngoảnh mặt, dựa sát, vuốt ve, hôn nhau, tất cả đều bắt được trong cái nhịp rập rềnh, chao đảo của con tầu. Có cả tiếng đàn, tiếng hát bất chợt bước vào ở một trạm nào đó, một cái ly giấy nhầu nhĩ đưa ra xin tiền sau tiếng nhạc cuối, rồi lại biến mất ở trạm tới. Mỗi trạm metro là một bức tranh minh họa đời sống thường nhật của dân Âu Châu. Họ nôn nả vào, nôn nả ra như những con lật đật, vì metro là phương tiện di chuyển chính. Đến sở làm việc, đi khám bệnh, đi học, đi mua sắm, đi đến nơi thương lượng buôn bán, hẹn hò với tình nhân, đều bước vào sau cánh cửa toa tầu, nắm chặt lấy thanh sắt, ôm cái túi, cái cặp sát vào ngực, chăm chú đếm từng trạm tầu dừng lại, sửa sọan sẵn một chỗ đặt chân để bước ra. Một người rời ghế đứng lên, có ngay một người khác thế vào.

Metro (nhất là ở Ý)còn hay bị các họa sĩ tài tử viết (graffiti)kín cả cánh cửa, có khi xịt sơn lên, hành khách đứng ở trong không nhìn được tên trạm để xuống. Họ viết nhằng nhịt, bẩn thỉu làm xấu xí cả những toa tầu.

Du khách ở phương xa tới cũng hòa nhập vào cái dòng xuôi chảy đó. Bỗng thấy nó nên thơ vô cùng. Có lẽ vì nó lạ, nó đông đảo hơn một chuyến bus ở bên địa phương mình, vì trên metro ở Paris và ở Rome có nhiều mầu da, và nhiều tiếng nói khác nhau hơn.Tạo nên một cộng đồng đa văn hóa ngay trong lòng toa tầu. Đi chơi không phải hấp tấp đúng giờ, và tự cho mình cái thú đi lạc. Sá gì, đi quá một trạm thì quay lại. Cứ quần jeans, giầy vải, ba lô, đi cả ngày không mỏi. Lang thang xuống phố, đi thăm các nơi nổi tiếng, ngồi uống cà phê vỉa hè, gặm bánh mì jambon fromage, lại tìm xuống trạm metro, lại cầu thang cuốn lên, cầu thang cuốn xuống, hoặc bước mấy chục buớc cầu thang chân, cúi nhìn xuống lòng con đường sắt, đợi nghe tiếng bánh nghiến vọng lại, nhìn thấy con tầu lừng lững hiện ra ở đường hầm. Tầu tới, chui vào toa tầu, nắm chặt cái cột giữa toa, nghe tiếng rung chuyển của thân tầu trên đường sắt, nghe va chạm vai, hông vào những người lạ hoắc, đọc thơ Tế Hanh trong đầu:

Bánh nghiến lăn lăn quá nặng nề

Khói phì như nghẹn nỗi đau tê

Tầu bây giờ không có khói phun ra ở đầu tầu, vì metro chạy bằng điện, không còn bằng than đá như ngày xa xưa đó nữa. Chưa đọc xong bài thơ là đã đến trạm xuống, đành hấp tấp chen vai, hích khuỷu tay bước ra, để rơi lại những câu thơ xuống sàn tầu, trên vai áo những người vừa đứng cạnh. Đi lang thang tiếp tục, xem nơi này, thăm chỗ kia, ghé nhà hàng ăn chiều, vang đỏ, vang trắng mời nhau. Paris về đêm hay Rome về đêm đều đẹp và trữ tình như nhau. Cứ lang thang đường này sang đường khác, từ khu phố cổ ở Paris hay khu công trường thánh Peter ở Rome cho đến khi bốn bàn chân mỏi (thật ra chỉ có hai bàn chân nhỏ mỏi thôi, còn hai bàn chân lớn đi suốt sáng vẫn đuợc.) Đành trả lại những mối tình của các ông hoàng, bà chúa trong cung điện Versailles cho những căn buồng ngủ thêu vàng dát ngọc. Trả lại bà hoàng Cleopatra, một bà hoàng làm khuynh đảo cả hoàng triều Rome trong hai mươi năm cho Julius Caesar. Khách du lịch dắt nhau tìm xuống đuờng hầm lên metro về khách sạn.

Metro đêm tương đối vắng hơn. Giờ tan tầm đã đi qua, lên toa hầu như ai cũng có chỗ ngồi. Lúc này là lúc những cặp tình nhân tự do ngồi vào lòng nhau hay đứng ve vuốt nhau trước mặt khách đồng hành. Dưới ánh đèn sáng trưng, tầu cứ rập rềnh, môi hôn cứ gắn, bàn tay cứ đặt vào những chỗ khó đặt nhất. Không sao cả! Chỉ có du khách là trố mắt ra nhìn, còn dân địa phương thì quen lắm rồi, trên chuyến tầu khuya họ hấp tấp về nhà, nhìn làm gì cho mỏi mắt.

Một con đường sắt trăm con tầu

Mưa nắng sớm trưa hay chiều

Người nhớ người thương người yêu (Y Vân)

Xuống tầu rồi, còn ngoái đầu quay lại, nhìn con tầu mất hút trong đường hầm. Đẹp và buồn!

Mùa thu Paris chỉ se se gió. Những hàng cây không chín đỏ, vàng muồi như những thành phố ở miền Đông hay Bắc Mỹ. Lá ngô đồng (platane) ở Paris chỉ úa vàng, khô, rồi cong lại và rơi xuống. Du khách bước vào vườn Luxembourg với một chút thất vọng trong lòng. Bài văn tả cảnh lá rơi trong vườn Lục Xâm Bảo thời xa xưa sao mà đẹp thế! Bây giờ cũng mùa thu, cũng lá ngập trong vuờn nhưng sao không thấy cái rực rỡ của thu, chỉ nhìn thấy mấy chiếc ghế bỏ không, những hàng cây chết, mầy người luống tuổi ngồi uống bia trong một cái quán ở giữa vườn. Mầu nâu buồn bã của lá khô vun thành từng đống chưa kịp hốt đi, những cái thùng rác bằng những túi ni lông trong suốt máng vào một cái vòng sắt, trông thấy hết cả rác bên trong, rất thiếu thẩm mỹ.( Người bạn đi cùng cho biết để nhìn rõ những vật lạ- nếu có- của quân khủng bố) Phóng tầm mắt nhìn bao quát một vùng, lá vàng ở đây hiu hắt quá! Người vào vườn ngày cuối tuần cũng thưa thớt. Du khách đi từ gốc cây nọ sang gốc cây kia, hàng cây Hạt Dẻ (Maronnie) lá còn xanh nhưng lại héo quăn từng góc, hỏi người quét vườn thì được biết nhiều cây này đang bị bệnh, chết từ từ mà chưa kiếm ra nguyên nhân. Bỗng thấy thương và tiếc như vừa đánh mất một thiên đường trong cổ tích. Chắc từ nay hết mơ mộng về cái vườn này.

Anh nhặt cho em một chiếc lá vàng rơi trên lưng người

homeless được không?

Con thuyền đi dọc theo dòng sông Seine, cô hướng dẫn tour nói tiếng Anh bằng giọng Pháp nên nghe rất dễ thương. Trời hôm nay đẹp, ngồi trên boong lộ thiên không thấy lạnh, thuyền trôi trên sông nhưng gió không mạnh lắm. Dọc theo hai bên bờ thỉnh thoảng lại thấy những cái túi ngủ. Có cái như con sâu cuộn, tòi ra một cái đầu, có cái chùm lên một người đang ngồi co ro hút thuốc. Hình ảnh này mỗi khi Đưa nhau xuống phố hôm nay rất quen thuộc ở Mỹ.

Dòng sông Seine nổi tiếng của Pháp chẩy qua thành phố Paris là con đường giao thông chính của nước Pháp thời xa xưa, đi bateau- mouche ( gọi là thuyền ruồi, vì trên cao nhìn xuống trông giống hệt một con ruồi khổng lồ)) dọc theo sông nhìn ngắm đựợc hết những phong cảnh ngoạn mục và những di tích nổi tiếng của Paris như Tour Eiffel, Grand Palais, Concorde, Musée du Louvre, Musée d’Orsay và Notre Dame v.v. Đặc biệt là những cây cầu cũ kỹ còn lại rất nhiều bắc qua dòng sông này. Các họa sĩ danh tiếng như Pierre Renoir, Alfred Sisley, Claude Monet và Vincent Van Gogh đã đem những giá vẽ đặt dọc theo bờ sông, họ pha mầu, rửa cọ ở đây làm cho dòng sông Seine càng thơ mộng và nổi tiếng hơn. Sông Seine là linh hồn và trái tim của Paris, nơi gìn giữ những kỷ niệm tuổi trẻ của người dân Paris và là nơi du khách để lại trái tim mình.

Vì ảnh hưởng văn hóa Pháp ở Việt Nam nên người Việt dù có đến Paris lần đầu, hay đến nhiều lần đều có cảm tưởng nơi này rất thân quen với mình. Mỗi nơi ta đến hình như cái tấm ảnh trong một cuốn sách xa xưa, hay một cái tên nào đó trong ký ức lại hiện ra: Montmartre với hương cà phê, khói thuốc, ngồi xuống cho họa sĩ vỉa hè vẽ vội một tấm chân dung của khách phương xa, Quartier Latin, Quartier Sorbonne, Quartier Saint Michel là những nơi lang thang thơ mộng nổi tiếng của sinh viên, Quận 13 của người Á Châu, Panthéon hầm mộ của những vĩ nhân tổ quốc ghi ơn, nơi ta đến để đọc lại những cái tên ngày xưa đã học như Victor Hugo, Marie et Pierre Curie, Jean Moulin, Voltaire v.v hay tên tuổi một thi sĩ, họa sĩ, văn hào nào đó được đọc lại trong đầu. Nếu cứ tả hết những nơi thăm viếng thì e rằng bài viết này sẽ dài thêm mấy trang nữa.

Nhưng đến Paris mà bỏ quên Chevreuse Valley du khách sẽ thiệt thòi lắm. Chevreuse cách Paris 30 cây số về phía tây nam. Du khách sẽ thấy nhánh sông Yvette chẩy qua Saint Michel vào Chevreuse, dưới những cái cầu gạch nhỏ thật là thơ mộng. Cây cỏ mùa thu bắt đầu úa vàng hai bên, những lẵng hoa đong đưa bên thành cầu, đường làng thanh vắng, tiếng chó sủa bâng quơ, nhìn xuống bên dưới thấy có những bực gạch được xây mấp mé dòng nước , một cái bảng đề: Nơi đây ở thế kỷ 17, những người thợ thuộc da đến nhúng những tấm da sống (cowhide) trong dòng nước này. Chắc ngoài những người thợ đó du khách cũng có thể tưởng tượng thêm mấy cô thôn nữ hái nho, hái táo cũng ra đây giặt áo. Chevreuse Valley mà chung quanh nó một diện tích khoảng mười sáu, mười bẩy dặm vuông Abbaye de Port-Royal des Champs có nhiều giáo đường và tu viện đã bị vua Louis XVI ra lệnh phá hủy tất cả, giết hoặc xua đuổi những nữ tu ra ngoài đời vào năm 1711, bây giờ chỉ còn sót lại một phần rất nhỏ kiến trúc phía ngoài của Les Granges (là kho chứa cỏ, ngũ cốc) Thời đó là nông trại nuôi sống cả abbaye Port-Royal đông đúc, náo nhiệt trước khi bị hủy diệt. Hiện Les Granges dùng làm viện bảo tàng và một cái nhà vòm trước xây để nuôi chim hòa bình đưa thư gọi là dovecote cũng còn tồn tại. Du khách bước vào nhà vòm này, ngửng mặt nhìn lên tháp cao sẽ thấy những cái tổ chim còn sót lại, những con chim được nuôi để làm nhiệm vụ đưa thư hồi đó, đã bay mất hút vào vòm trời xanh biếc với những tờ thư trên mỏ. Chúng đã giao thư vào một địa chỉ mây.

Nói đến Port-Royal des Champs du khách cũng nên nhắc đến câu nói bất hủ của Blaise Pascal "Le silence éternel de ces espaces infinis m`effraie - Sự thinh lặng vĩnh hằng của không gian vô tận làm tôi sợ hãi" trong PENSÉES, một cuốn sách bạn bè in cho ông sau khi ông mất (tập hợp những đọan văn, những câu rời rạc bị gạch xóa, tẩy bỏ…của Pascal) Pascal đã một thời ẩn thân trong Port-Royal des Champs như một hermit (ẩn sĩ) thời đó hơn là tu sĩ, ông sống trong tinh thần của một Nguyễn Công Trứ -Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ-

Du khách cúi xuống thả một mảnh tim mình trên nhánh sông Yvette. Bỗng nhớ đến sông Tiền, sông Hậu ở một quê nhà xa lắc, nơi những chiếc thuyền máy chở du khách đi dọc theo bờ, ghé vào từng trạm để chứng kiến đời sống mộc mạc hiền lành của người dân quê miền Nam, nơi những em bé lên mười vừa biết trông em, vừa biết phụ giúp cha mẹ làm bất cứ việc gì để kiếm được hai bữa cơm một ngày, hai bộ quần áo một năm và có tiền đóng học phí hàng tháng.

Trôi đi! Trôi đi sông ơi!

Trần Mộng Tú

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 26469)
Tôi rời Hà Nội vào Nam rất sớm. Năm 1951 tôi đã theo bố tôi và người chị cả vào định cư ở Sài Gòn trong khi mẹ tôi và các anh chị tôi vẫn còn ở Hà Nội cho đến ngày di cư. Vào Nam ba bố con tôi ở chung với gia đình người bác ở đầu đường Hồng Thập Tự gần sở thú Sài Gòn.
15 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 26253)
Mỗi con người ngày nay mang trong mình một di vật. Với tôi là chiến tranh và tiểu thuyết. Chiến tranh của suốt tuổi hoa niên không bao giờ chấm dứt và tiểu thuyết của một thời đại đã biến mất. Không biết từ bao giờ tôi nghiệm ra tuổi thơ của mình vẫn chưa chấm dứt. Tiếng súng AK trong đêm tối Tết Mậu Thân còn hộc lên như nhát búa. Tiếng súng in sâu vào tâm trí mà tôi không hay.
17 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 34427)
LTS: Ký, một thể loại hiếm trong văn học di dân Việt Nam, càng hiếm ở những cây bút mới. « Puerto Princesa City » mang sự đặc biệt khi ghi lại tâm trạng của một thế hệ trẻ mà ngày vượt biên hãy còn niên thiếu.
17 Tháng Giêng 200912:00 SA(Xem: 25791)
Đôi khi người ta nói niềm tin và ước mơ chỉ là một. Có những niềm tin không bao giờ tắt trong đời sống mà ước mơ lớn nhất của di dân vẫn là giấc mơ hồi hương. Trong số những người ấy có nhiều phụ nữ đã sống gần trọn một thế kỷ với cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai. Họ đã rời Hà nội ra đi khi Việt nam bị chia đôi hai bờ vỹ tuyến và phải bỏ quê hương thêm một lần nữa khi biến cố 1975 ập đến. Một trong những phụ nữ can đảm ấy là mẹ tôi.
17 Tháng Giêng 200912:00 SA(Xem: 27146)
Sống giữa thời đại văn minh cơ khí, thời gian ngựa chạy, xe xua ồn ỉ, con người phóng dật... tự nhiên ở cái lứa tuổi thập lục nhàn tôi thèm nhớ về, thèm sống lại cái thời xa lơ xa lắc ở bên nhà.
10 Tháng Mười Hai 200812:00 SA(Xem: 93369)
Không biết những người dân ngồi chờ đã bao lâu. 7giờ 58 phút trưởng Công an xã mới lù mặt tới. Hắn bước vào bàn và kéo chiếc ghế nhích ra ngoài, hắn lấy tờ “nhật trình” để trên bàn phất vài cái vào mặt ghế, hắn ngồi xuống. Tay trưởng Công an xã liếc qua chồng chứng từ, hắn không cần phải ngẩng mặt lên nhìn ai (có thể là một thói quen?), sau khi nghiền ngẫm xong từng tờ đơn xin hay khiếu kiện gì đó. Hắn lấy cây viết cài trên túi áo rồi hắn ký chậm rãi dưới những tờ đơn.
08 Tháng Mười Hai 200812:00 SA(Xem: 23911)
Bao giờ cũng thế, mùa xuân cho tất cả chúng ta sự háo hức, thách thức, bận rộn, hy vọng. Quy luật thiên nhiên quen thuộc ấy trao niềm vui, những lo toan cho mọi người, có lẽ đó là phép chia/giao bình đẳng nhất, dù mỗi số phận khác nhau. Tết, từ ấy cất lên như điểm hẹn, lời thúc giục, tiếng reo, dấu mốc...
08 Tháng Mười Hai 200812:00 SA(Xem: 26871)
Sau 30 năm lạc nhau, ở nhiều nghĩa, tôi gặp lại bạn cũ - bây giờ là một người Việt Nam không buồn không vui. Một người Việt Nam mà từ đầu đến chân toát ra sự man mác ở mọi lĩnh vực.
08 Tháng Mười Hai 200812:00 SA(Xem: 25647)
Mỗi lần về quê ngoại, gia đình tôi thường dùng ga phụ nhỏ hơn là ga Đầu Cầu, tên gọi như vậy vì nhà ga nằm ngay đầu cầu Long biên băng qua sông Hồng đến cảng Hải phòng cách đó đúng 105 km
08 Tháng Mười Hai 200812:00 SA(Xem: 24534)
Dưới chân núi Tam-Đảo có xã Đạo-Trù, huyện Lập-Thạch, tỉnh Vĩnh-Yên. Nơi đây còn có trại giam Vĩnh-Quang, một trong hàng trăm trại ở Bắc Việt đã giam cầm những người, trước 30/4/1975, phục vụ trong chính quyền Việt-Nam Cộng Hoà ở miền Nam. Trong số phạm nhân ấy có những người được gọi là "Sĩ Quan Ngụy đi tù cải tạo".