- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Mắt nhìn chín cõi

18 Tháng Bảy 201212:00 SA(Xem: 90889)

 

vanhoc144-content

Tháng 10, năm 1999, lần đầu tiên tôi gửi bài cho báo Văn Học. Gửi thử thôi. Không có hy vọng báo đăng. Một vài cây viết kỳ cựu trước 1975 bảo tôi, Văn Học, Văn “tuyển” bài lắm. Có người còn dọa, làm thơ phải biết “nhậu”, viết văn phải biết xã giao, phải có quen biết, có gửi gắm,… Đóng cửa như tôi thì viết có mà để giun dế đọc.

Tôi không tin. Một nhà văn đích thật, tự nhiên sẽ quý văn người như văn mình.


“Không tin ư?” Bạn tôi nói. “Văn của Dương Nghiễm Mậu từng bị quăng vào sọt rác, thơ Nguyễn Tất Nhiên cũng phải luồn cúi mới được đăng.”


Tôi xót xa, “Thế còn gì là văn chương?”


Cả ngày, tôi lan man thương cảm cho những ngòi bút đã mịt mùng trong quên lãng.


Bạn tôi “bồi” thêm, “Vì sao mà Đối Diện, Trình Bày, Ý Thức,… ra đời? Vì sao có những tên tuổi bây giờ lại chưa từng có mặt trên Bách Khoa, Văn Học, Văn,… thuở trước?”


Trong tích tắc, lòng tôi bỗng chùng xuống.


Rượu, tôi không uống. Xã giao, tôi không thích. Phe nhóm, tôi không ưa. Tôi thở dài, liều mạng tuyên bố một câu xanh dờn. “Được thôi. Vậy thì tôi sẽ viết để giun dế đọc.”


Qua ngày hôm sau, Văn Học email hồi âm. Ông Nguyễn Mộng Giác viết vài lời nhận xét và khen ngợi. Tôi hồi âm, kiệm lời, kiệm ý. Và tự răn mình trước những lời khen. Lời khen giống như một thứ rượu ngon, dễ quá chén.


Mấy ngày sau, hơn mười giờ tối, ông Giác gọi hỏi thăm. Giọng ông hòa nhã, vui vẻ. Ông tỏ ý thích những tư tưởng trong bài và nhắn nhủ mong có sự hợp tác dài lâu. Sau này, qua một vài người quen, tôi vở lẽ, ông gọi bất ngờ chỉ để kiểm chứng coi tôi có phải là phụ nữ thật không.


Năm 2001, tôi có dịp đi Cali và đến thăm “tòa soạn” báo Văn Học. Đó là căn nhà riêng của ông Nguyễn Mộng Giác. Đó cũng là căn nhà chung của giới văn nghệ sĩ. Ông Giác dẫn tôi đi loanh quanh xem góc làm việc của tờ Văn Học, chỗ garage làm kho chứa báo.


Với những người viết, sự gặp gỡ chỉ là cơ hội để kiểm chứng giữa văn và người. Bởi họ đã quen biết nhau qua tác phẩm. Nhưng Nguyễn Mộng Giác đã đưa tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.


Cảm giác ngạc nhiên đầu tiên, ông là người đàn ông không đẹp trai. Nhưng càng nói chuyện, tôi càng bất ngờ. Bên trong cái bề ngoài thô ráp kia là một tâm hồn tinh tế, tỉ mỉ, sâu sắc và đẹp. Đẹp đến xúc động. Trí nhớ tôi bất chợt lui về trên những trang sách. Loáng thoáng, tôi bắt gặp vài nét quen quen trong những nhân vật của ông. Ông Giáo Hiến, Lãng, người tù cải tạo, anh chàng kéo vĩ cầm,… đều đang lẩn quất đâu đó.


Câu chuyện văn học lan man đủ thứ. Mỗi người góp một chút. Tôi im lặng ngồi nghe những khúc chắp nối, không đầu không đuôi. Có người ngắt một vài giai thoại trước 75, chị Chi kể một vài kỷ niệm khi anh Giác viết Sông Côn Mùa Lũ, ông Giác nói về giai đoạn khó khăn khi bắt đầu làm tờ Văn Học, và những khuynh hướng mới, những người mới trong giai đoạn sau này ở hải ngoại.


Khi câu chuyện bắt đầu lơi, mọi người quay sang nhận xét về tôi. Ông Giác tiên đoán, sau này tôi sẽ là một cây viết độc lập, không giống ai. Có nghĩa là, (ông giải thích thêm), tôi sẽ đứng một mình một cõi.


“Một mình một cõi?” Tôi lớ ngớ hỏi, “Cõi nào?” Lập tức, trong đầu liên tưởng ra những chủ đề mình đang viết.


Ông Giác nói, thông thường những người mới viết đều viết truyện về mình, sau mới viết về người. Tại sao tôi không viết về mình. Hay truyện tình, chẳng hạn. Tại sao không?


Tôi cười cười. Nói về mình? Truyện nhạt mất. Còn truyện tình. Là chuyện nhỏ. Ở mỗi một chuyện tình ngang trái đều có một cái gút. Cái gút ví như hòn sỏi nhỏ trong đôi giày. Tôi không hiểu sao, các tác giả thường bắt những nhân vật chính mang đôi giày đi một cách khốn khổ từ đầu tới cuối truyện.


Ông cười khuyên, vậy thì tôi nên viết truyện dài.


Thời gian sau, Văn Học giao cho nhà văn Cao Xuân Huy. Tôi không còn liên lạc với ông như trước. Thỉnh thoảng, tôi lục bài viết của ông, đọc đi đọc lại. Còn ông, cũng đọc những bài viết của tôi đăng trên net.


Hai năm sau này, thỉnh thoảng bạn bè ở Cali báo tin sang. Tôi mới gọi điện thoại thăm. Chị Diệu Chi kể sơ sơ về bệnh tình. Ông Giác bắt điện thoại. Ông lại nhắc tôi viết truyện dài. Giọng ông vẫn hăm hở. Hình như câu chuyện hôm nay vẫn đang tiếp nối cuộc chuyện trò của mười năm trước. Lời đồn quả không ngoa. Lòng đam mê văn chương đang thổi rốc lên một tia lửa, làm hồi sinh một thân xác đang suy tàn.


Vẫn biết “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử?”, tôi khuyên mọi người, nhưng không khuyên được chính mình. Những vì sao trong văn học cứ rơi rụng dần.


Biết ông bệnh nặng, nhưng tôi không đi thăm. Không có người đàn ông nào muốn người phụ nữ thấy mình trong tình trạng đang suy kiệt. Tôi cứ ngồi nhà mà nghĩ tới ông, thì cũng được. Nói đúng ra, tôi muốn giữ hình ảnh nhà văn Nguyễn Mộng Giác thời nào của tờ Văn Học. Một người trí thức điềm tĩnh, hiền hòa, mô phạm. Một ngòi bút sâu sắc, tinh tế, đầy nhân bản. Một phong cách điển hình cho văn nghệ sĩ Miền Nam. Một loại “thạch trung ẩn ngọc” phải lôi trôi, luân lưu theo thời vận.


Tin ông qua đời không làm tôi ngạc nhiên. Tôi chuẩn bị tinh thần đã nhiều lần trước đó. Dù vậy, vẫn không tránh khỏi sự xúc động. Xúc động đến lao đao. Mấy hôm nay ra vào, tôi cứ ngẩn ngơ.


Sau cái chết, linh hồn người ta đi đâu?


Lên thiên đàng? Xuống địa ngục? Hay lạc bước về đâu trong chốn vũ trụ khôn cùng?


Còn người viết, linh hồn của họ sẽ về đâu?


Tôi lên net, đọc lại bài 
Bầu Ơi, Thương Lấy Bí Cùng. Bất chợt, gặp ông sống dậy trong vai người tù cải tạo.

… Tôi cố giữ trầm tĩnh ngồi bó gối nhưng trong lòng như có ai đốt lửa. Nhà tiếp tân vắng dần. Bốn giờ 23, rồi bốn giờ 24 phút. Đúng 4 giờ 25 thì chuyến tàu chợ từ Sài Gòn lên xình xịch đỗ ngoài ga. Niềm hy vọng của tôi đây. Không dằn được nữa, cả tôi lẫn cụ thiếu tá đều đứng bật dậy dợm chạy ra nhà tiếp tân. Tôi đã không lầm. Lúc hồi kẻng báo hiệu giờ thăm nuôi đã hết uể oải điểm đều từng tiếng, tôi thấy mẹ và em tôi vội vã xách hai cái giỏ lát khá lớn chạy từ nhà ga vào cổng trại. Em gái tôi gầy gò, mẹ tôi già yếu, nên thấy dáng hối hả của hai mẹ con, tôi xúc động quá bất giác kêu lớn:


- Mẹ, con đang chờ đây!

Có lẽ tiếng gọi của tôi bị gió rừng bạt mất, vì tôi không thấy mẹ và em tôi quay lại. Anh vệ binh đứng tuổi mang kính râm giữ việc kiểm soát giấy phép đã đứng dậy ra về, toán thân nhân đến trễ đang bu quanh anh, nét mặt người nào cũng khẩn khoản, chới với. Họ năn nỉ gì đó, nhưng tôi thấy anh vệ binh cứ lắc đầu. Một bà cụ nắm tay anh nói một hồi. Anh ta chăm chú nghe, nhưng đưa tay lên xem đồng hồ, rồi cương quyết lắc đầu. Đến phiên mẹ tôi chen vào. Mẹ tôi nói gì tôi không rõ, chỉ thấy mẹ tôi vừa nói vừa trỏ về phía nhà ga. Có thể bà cụ đang đổ lỗi cho chuyến tàu chợ trễ nãi. Anh vệ binh vẫn lắc đầu. Nóng ruột quá, tôi liều lĩnh bỏ chỗ gốc sấu chạy đến khu thăm nuôi. Tôi nghe rõ mồn-một giọng Nghệ Tĩnh giận dữ tức tối của anh ta:

- … Các người còn muốn đòi gì nữa? Chồng con các người mang tội với nhân dân phải học tập cải tạo nhưng còn có ngày được về. Còn tôi đây này, nhập ngũ từ 1965, đi khắp các chiến trường cho đến lúc về ở cái xó rừng này, biết bao giờ tôi mới được về? Chồng con các người còn được tiếp tế giỏ này giỏ nọ. Còn tôi đây, vợ con không có đủ tiền gửi cho lấy một cái kẹo. Các người có dư tiền để mua vé xe lửa lên đây thăm nuôi. Vợ tôi biết tôi ở đây từ hơn hai năm nay, chưa thấy mặt tôi gần bảy năm rồi mà không có đủ tiền mua lấy cái vé xe hạng chót! Các người còn đòi gì nữa!

Nghe lén được mấy câu đó, tôi sững sờ đến nổi gai ốc. Tôi va đầu vào cái tường sự thật tàn nhẫn nên choáng váng. Người tôi ngây ngây, quên cả ý định lên tiếng để mẹ và em tôi trông thấy. Có lẽ các thân nhân đến trễ cũng có tâm trạng y như tôi, nên nghe anh vệ binh nói xong, họ tản ra hết. Đã nói đến nước đó thì nằn nì cũng vô ích, nên tôi thấy mẹ và em buồn bã xách đồ ra ga mà không biết phải làm gì. Cuối cùng tôi chỉ còn biết sợ! Tôi nháy mắt ra hiệu cho cụ thiếu tá hồi hưu, rồi se sẽ nép vào các gốc cây để trở lại chỗ cũ. Chúng tôi về trại tay không, lòng vừa buồn rầu vừa hoang mang thật khó tả. Anh vệ binh già cầm xấp giấy phép hướng dẫn chúng tôi vào. Nét mặt anh lầm lì, bước chân nặng nề, đầu cúi xuống. Chiều ở rừng buốt lạnh. Chuyến tàu chợ ngược về Sài Gòn xình xịch đỗ ở cái ga xép. Tiếng còi tàu khao khao hơi nghẹn. Cổ họng tôi cũng nghẹn. Buổi tối hôm đó tôi nằm riêng một góc không tham dự cuộc vui chung. Các bạn tưởng vì không được thăm nuôi tôi buồn, nên ân cần đem đến tận chỗ tôi nằm mời ăn hết thức này đến thức khác. Tôi cầm cho họ vui lòng, nhưng không thể nói hết lý do nỗi hoang mang của tôi.

Tôi tiếp tục được hưởng sự ân cần mời mọc của bạn bè suốt nửa tháng thăm nuôi còn lại. Thật ngược đời! Trong láng, tôi và cụ thiếu tá bảo an hồi hưu trở thành hai đứa trẻ được nuông chiều. Tôi ăn uống sang trọng phủ phê còn hơn cả những người được thăm nuôi đầy đủ. Nhưng “sự phồn thịnh ấy giả tạo” đúng như bài học chính trị chúng tôi học thuộc làu trong năm đầu. Lúc các thức ăn chơi đã cạn và trong giỏ xách từng người chỉ còn lương khô, thì ai ai cũng lo tính đến đường xa. Kỳ thăm nuôi sắp tới chưa biết lúc nào, sức mang, xách, khiêng, đội, gánh gồng của những người vợ héo hon những bà mẹ già nua những đứa em yếu ớt thì có hạn. Cho nên ai cũng phải dè xẻng tính toán từng mẩu bánh khô, từng nắm cốm dẹp. Không muốn ích kỷ cũng phải đâm ra ích kỷ. Tôi trở lại sống nghèo đói đúng 100% nghĩa đen giữa đám bạn bè tương đối đầy đủ. Tinh thần tôi còn sa sút hơn trước. Không còn sự bình đẳng trong thiếu thốn nữa, nên tôi và cụ thiếu tá thui thủi một mình, mỗi lần thấy ai mở giỏ lương thực hoặc nấu nướng thứ gì, phải tìm cách lánh đi chỗ khác để họ khỏi khó xử. Và thành thực hơn, phải nói thêm là để đỡ thèm thuồng! Đã thế hình như ban quản giáo ỷ y vào đồ thăm nuôi nên lặng lẽ rút bớt tiêu chuẩn cấp phát xuống. Tôi đói mà không kêu ca than van với ai được! Kêu ca với các cán bộ hoặc vệ binh ư? Lỗi tại mẹ và em tôi đi trễ chứ đâu phải tại tổ chức! Than van với bạn bè thì có khác nào xin khéo để buộc họ bố thí. Cụ thiếu tá đã trên 60 ăn uống nhỏ nhẻ và giỏi chịu đựng như đã từng chịu đựng cuộc đời 60 năm dài. Còn tôi, sức tôi còn trẻ. Tôi cần ăn nhiều. Tôi mới 24 tuổi. Nhưng lấy gì bỏ vào mồm bây giờ?


Đọc tới đây, tôi đâm ra thương anh tù trẻ này quá đỗi. Trong lúc đói tới hoang mang mà vẫn coi nhân cách nặng hơn cái chết. Con người hơn con vật chỉ vì cái cách ăn.


Nhưng điểm nhất của bài này là ở câu kết. Cái đoạn sau kể về một đêm tối canh rẫy bắp. Người tù và kẻ canh tù chạm trán trong khi “ăn cắp” bắp. Dù bắp do chính tay mình trồng. Cả hai cùng “giành quyền làm chủ ngang xương”


… Bầu ơi, thương lấy bí cùng.


Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

…Từ lâu, tôi vẫn nghĩ lẩn thẩn: không biết người nghệ sĩ nào đặt ra hai câu ca dao đó, có tiên đoán tác phẩm của mình về sau lại được sử dụng vào hoàn cảnh oái oăm như thế không? Tôi nghĩ rằng có, vì đôi mắt nghệ sĩ có thể nhìn suốt chín cõi. Kể cả cảnh hai chúng ta lén ăn bắp nướng, phải không?


Đóng trang sách lại. Bây giờ thì tôi tin, sau khi chết, người viết sẽ lại trở về giữa những dòng chữ của mình. Ví như một vì sao tắt, còn để lại trên bầu trời những dấu vết lấp lánh.


Sao ơi!


ntta


7/7/2012


Nguồn: http://damau.org/archives/25063

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 26495)
Tôi rời Hà Nội vào Nam rất sớm. Năm 1951 tôi đã theo bố tôi và người chị cả vào định cư ở Sài Gòn trong khi mẹ tôi và các anh chị tôi vẫn còn ở Hà Nội cho đến ngày di cư. Vào Nam ba bố con tôi ở chung với gia đình người bác ở đầu đường Hồng Thập Tự gần sở thú Sài Gòn.
15 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 26299)
Mỗi con người ngày nay mang trong mình một di vật. Với tôi là chiến tranh và tiểu thuyết. Chiến tranh của suốt tuổi hoa niên không bao giờ chấm dứt và tiểu thuyết của một thời đại đã biến mất. Không biết từ bao giờ tôi nghiệm ra tuổi thơ của mình vẫn chưa chấm dứt. Tiếng súng AK trong đêm tối Tết Mậu Thân còn hộc lên như nhát búa. Tiếng súng in sâu vào tâm trí mà tôi không hay.
17 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 34473)
LTS: Ký, một thể loại hiếm trong văn học di dân Việt Nam, càng hiếm ở những cây bút mới. « Puerto Princesa City » mang sự đặc biệt khi ghi lại tâm trạng của một thế hệ trẻ mà ngày vượt biên hãy còn niên thiếu.
17 Tháng Giêng 200912:00 SA(Xem: 25838)
Đôi khi người ta nói niềm tin và ước mơ chỉ là một. Có những niềm tin không bao giờ tắt trong đời sống mà ước mơ lớn nhất của di dân vẫn là giấc mơ hồi hương. Trong số những người ấy có nhiều phụ nữ đã sống gần trọn một thế kỷ với cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai. Họ đã rời Hà nội ra đi khi Việt nam bị chia đôi hai bờ vỹ tuyến và phải bỏ quê hương thêm một lần nữa khi biến cố 1975 ập đến. Một trong những phụ nữ can đảm ấy là mẹ tôi.
17 Tháng Giêng 200912:00 SA(Xem: 27200)
Sống giữa thời đại văn minh cơ khí, thời gian ngựa chạy, xe xua ồn ỉ, con người phóng dật... tự nhiên ở cái lứa tuổi thập lục nhàn tôi thèm nhớ về, thèm sống lại cái thời xa lơ xa lắc ở bên nhà.
10 Tháng Mười Hai 200812:00 SA(Xem: 93501)
Không biết những người dân ngồi chờ đã bao lâu. 7giờ 58 phút trưởng Công an xã mới lù mặt tới. Hắn bước vào bàn và kéo chiếc ghế nhích ra ngoài, hắn lấy tờ “nhật trình” để trên bàn phất vài cái vào mặt ghế, hắn ngồi xuống. Tay trưởng Công an xã liếc qua chồng chứng từ, hắn không cần phải ngẩng mặt lên nhìn ai (có thể là một thói quen?), sau khi nghiền ngẫm xong từng tờ đơn xin hay khiếu kiện gì đó. Hắn lấy cây viết cài trên túi áo rồi hắn ký chậm rãi dưới những tờ đơn.
08 Tháng Mười Hai 200812:00 SA(Xem: 23959)
Bao giờ cũng thế, mùa xuân cho tất cả chúng ta sự háo hức, thách thức, bận rộn, hy vọng. Quy luật thiên nhiên quen thuộc ấy trao niềm vui, những lo toan cho mọi người, có lẽ đó là phép chia/giao bình đẳng nhất, dù mỗi số phận khác nhau. Tết, từ ấy cất lên như điểm hẹn, lời thúc giục, tiếng reo, dấu mốc...
08 Tháng Mười Hai 200812:00 SA(Xem: 26923)
Sau 30 năm lạc nhau, ở nhiều nghĩa, tôi gặp lại bạn cũ - bây giờ là một người Việt Nam không buồn không vui. Một người Việt Nam mà từ đầu đến chân toát ra sự man mác ở mọi lĩnh vực.
08 Tháng Mười Hai 200812:00 SA(Xem: 25688)
Mỗi lần về quê ngoại, gia đình tôi thường dùng ga phụ nhỏ hơn là ga Đầu Cầu, tên gọi như vậy vì nhà ga nằm ngay đầu cầu Long biên băng qua sông Hồng đến cảng Hải phòng cách đó đúng 105 km
08 Tháng Mười Hai 200812:00 SA(Xem: 24579)
Dưới chân núi Tam-Đảo có xã Đạo-Trù, huyện Lập-Thạch, tỉnh Vĩnh-Yên. Nơi đây còn có trại giam Vĩnh-Quang, một trong hàng trăm trại ở Bắc Việt đã giam cầm những người, trước 30/4/1975, phục vụ trong chính quyền Việt-Nam Cộng Hoà ở miền Nam. Trong số phạm nhân ấy có những người được gọi là "Sĩ Quan Ngụy đi tù cải tạo".