- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Khó Quên Những Ngày Tạ Chí Đại Trường Ở Phan Thiết!

04 Tháng Tư 201612:59 SA(Xem: 30294)



Sach-TCDT-bw

Khi nghe tin nhà sử học Tạ Chí Đại Trường tạ thế ngày 24.3.2016 sau thời gian ngắn khoảng 5 tháng khi từ Mỹ quay về sống những ngày cuối đời tại Việt Nam với di nguyện được gởi nắm tro tàn bên cạnh mẹ ở quê hương. Ở tuổi đời 81, độc thân và với những công trình nghiên cứu không những về mảng lịch sử gần như bị lãng quên mà còn là người giải mã những giá trị văn hóa tâm linh trong dòng chảy văn hóa dân tộc. Nhà sử học Dương Trung Quốc đã đánh giá: “Tác giả đã giúp diễn biến của Việt từ thời tối cổ cho đến thời cận đại, qua đó mà hiểu thêm diễn biến của tín ngưỡng thờ thần của dân tộc ta, đi sâu vào cuộc sống tâm linh của dân tộc qua các thời đại”, khi đề cập đến tác phẩm “Thần, người và Đất Việt” của Tạ Chí Đại Trường, tái bản tại Việt Nam năm 2006 nằm trong số hàng chục tác phẩm nghiên cứu qua 21 năm định cư ở nước ngoài.Tưởng chừng cuộc đời anh lặng lẽ nhưng khi mất có nhiều báo, tạp chí trong nước đưa tin với những bài viết về sự nghiệp nghiên cứu của anh đã đóng góp cho lĩnh vực văn hóa, lịch sử đất nước một cách khâm phục là điều rất đặc biệt. Như giáo sư  sử học Nguyễn Thế Anh, chủ biên tập san Sử địa- Sài Gòn trước 1975, đã nhận xét: ”Tạ Chí Đại Trường luôn sẵn sàng chấp nhận một sự chung thân với truyền thống xa xưa của các sử gia xứng với tên gọi này”. Tạ Chí Đại Trường có một bút pháp rất riêng, nhẹ nhàng giàu cảm xúc cùng với cái nhìn riêng biệt nhưng thật sự nghiêm túc, khoa học và chân xác. Thật hiếm có một nhà nghiên cứu sử học nào được các nhà sử học trong nước có những ghi nhận với lòng trân trọng như thế.

      Trở lại chuyện đời thường. Tôi có cơ may sống bên anh tại Quân y viện Đoàn Mạnh Hoạch từ khoảng đầu năm 1969 đến năm 1972. Đơn vị này đóng bên cạnh phi trường quân sự Phan Thiết (Bình Thuận) có tên Camp ESEPIC, xung quanh là bãi tha ma nối dài đến Bia đài- Cổng Chữ Y, cách trung tâm thị xã Phan Thiết khoảng 3 cây số. Khi Tạ Chí Đại Trường từ một đơn vị quân y của Thủy quân lục chiến về với cấp bậc Trung úy, là sĩ quan hành chánh quân y. Anh được giao chức vụ Trưởng phòng Tiếp liệu của Quân y viện. Dáng người anh cao lêu nghêu, lại đeo kính cận không có gì mang vẻ một người lính của binh chủng dữ dằn với bộ quân phục rằn ri như lúc mới trình diện. Lúc đầu, tôi có chiếc mobylette, muốn nổ máy phải bật chân chống lên đạp máy tua rồi mới chạy được. Tôi chở anh đi quanh khắp thị xã nhỏ này, nhưng anh thích nhất là đến dinh Vạn Thủy Tú, Chùa Ông, chùa Bà và đồi Phú Hài… Anh mê mẫn với từng câu đối, hoành phi chữ Hán nhưng không bao giờ ghi chép mà chỉ lẩm nhẩm trong miệng như người lẫn tính. Dưới mắt anh bao giờ cũng là câu hỏi và cuối cùng cũng chính anh tự trả lời. Những ngôi mộ cổ trên Lầu Ông Hoàng, anh phân ra nào là mộ của người Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến… qua kiểu xây, họa tiết. Theo anh, các bài vị của người chết, tử nạn trên biển thờ cúng tại Chùa Ông, đền miếu của các bang Hoa kiều còn có ý nghĩa nhắc nhở người sống đừng xa rời tinh thần quê hương nữa. Chùa Ông uy nghi với với lễ hội nghinh Ông, múa rồng trong màu sắc rước đèn, chưng cộ rầm rộ trở thành tập tục từ sự thờ cúng vị anh hùng mặt đỏ đất Ba Thục. Qua đó người ta có thể tìm ra trong văn hóa Nam hà những yếu tố dị biệt với Bắc hà do bởi ảnh hưởng Trung Hoa nam Trường Giang và cận đại.

         Thực ra công việc hành chánh cũng khá nhàn nhã, trừ khi nghe tiếng trực thăng Shinook đáp xuống khoảnh đất cạnh Quân y viện với hàng chục chiếc băng ca chuyển lính trận bị thương về mới thấy chuyện bận rộn, kinh hoàng. Khi nghe Hồ Tà Dôn, một nhà thơ trẻ trong nhóm văn nghệ ở Phan Thiết, ở Phú Hài vừa san ủi đất công trình đã lộ ra một số chum sành có nhiều đồng tiền cổ,Tạ Chí Đại Trường vội đến ngay, không biết bằng cách nào anh xin được vài chục đồng tiền điếu, có xu đã mòn hết chữ nhưng cẩn thận xếp vào valy sưu tập cất ở đầu giường. Sau này, không hiểu sao valy tiền cổ bị mất cắp, anh như người mất cả hồn phách, rồi cạo trọc đầu và trông anh thất thểu.Trong quân đội cấm lính để râu, cạo trọc nhưng là đơn vị chuyên môn cho nên cấp trên cũng lờ đi. Khi làm tập san Quê Hương (1969) do Lê Văn Chính, Nguyễn Bắc Sơn đứng ra vận động, tôi và anh cùng dự họp các buổi ban đầu tại nhà của Sơn, số 1 đường Chu Văn An, đến số thứ 2 cũng là cuối cùng thì anh đã rời Phan Thiết. Với bài biên khảo “Phan Thiết, thành phố trong khuôn khổ” anh có một cái nhìn khá thú vị: “Phan Thiết, cái tên thông tục của danh từ Mân Thít từ sử sách nhà Nguyễn, chuyển âm của một làng chài xứ Chàm xưa, lúc này cũng vẫn còn là một làng chài, tuy có phức tạp hơn. Thành phố nằm trên lượn uốn khúc cuối cùng của sông Cà Ty. Trông ra một cửa biển nhiều cá, là nơi lý tưởng cho ngư dân sắc tộc địa phương tụ tập”. Anh thường đặt ra câu hỏi và chia sẻ mỗi lần đi điền dã với anh, khi đề cập đến ngọn đồi cao của làng biển Phú Hài, nơi có tháp Chăm cổ đã đổ nát và dấu tích Lầu Ông Hoàng với câu chuyện tình thơ mộng của Hàn Mặc tử. Theo anh dãy đồi cao đó là cư xứ của người Chăm ngày xưa, còn vùng đất Phan Thiết hàng trăm năm trước là vùng trũng ngập nước biển. Đúng cách gọi phải là Phố Hời, vì Hời, Chàm theo cách gọi thời đó nhưng sau bị coi là miệt thị. Như chúng ta thường nghe đến những phát hiện vàng làm thành nãi chuối, cau trầu tục thờ cúng chôn trong đất, người ta gọi là vàng Hời. Điều này phù hợp cách đọc của người dân bản địa bị trại âm từ ơ ra a. Đến năm 1970, Tạ Chí Đại Trường nhận được giải thưởng văn chương toàn quốc với tác phẩm “Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802”, đây là luận văn cao học của anh từ năm 1964 nói về cuộc nội chiến giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Đến năm 1971 với tên tuổi về tác phẩm này mà anh được điều về Ban Quân sử của Bộ TTM ở Sài Gòn. Đời lính từ nơi đối mặt với chiến trường, rồi về một bệnh viện quân y tưởng yên ổn nhưng lại phải thường xuyên ám ảnh cảnh chết chóc, những chiếc quan tài vội vàng bọc lớp tôle kẽm mỏng giao cho thân nhân hoặc đưa chôn ở nghĩa địa. Đêm đêm nghe tiếng rên rú của lính trận bị thương … mà nay được về Sài Gòn, ai cũng mong được vì đó là chỗ nương thân không gì bằng, nhất là đối với những người luôn sợ hãi chiến tranh. Có người nói do nội dung tác phẩm được giải này mang nội dung đề cao vai trò lịch sử của Gia Long, hạ thấp Quang Trung mà anh gặp nhiều rắc rối sau ngày giải phóng. Theo tôi, với cái lý lịch sĩ quan ngành quân y thì cũng được nhìn nhẹ nhàng thôi, nhưng đúng hơn có một phần chịu tiếng là một “sử quan” ngụy quân càng thêm nhiều nỗi thăng trầm, là thế!

            Lần gần nhất, anh về Việt Nam và ghé Phan Thiết vào cuối năm 2011, anh tặng tôi tập “Người lính thuộc địa Nam Kỳ 1861- 1945” vừa do nhà xuất bản Tri Thức(VN) ấn hành. Đây là bản thảo luận án Tiến sĩ sử học trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, đã có từ đầu 1975. Trông anh có vẻ già hơn tuổi 75, nhưng không nghe anh nói về bệnh tật của mình. Tôi có hỏi anh, thời gian ở Mỹ điều kiện nào để có tư liệu mà hình thành nhiều công trình nghiên cứu như vậy và nếu phát hành ở đất người sẽ có không nhiều người đọc, nhất là còn cuộc sống ở Mỹ phải cật lực kiếm sống nữa. Anh tâm sự và nhận ra ở anh có một phương pháp nghiên cứu riêng cho mình, thoát ra khỏi cái khuôn khổ quen thuộc và lặng lẽ viết… Cứ thế, anh không bao giờ nghĩ đến lúc sẽ in, sẽ được công bố, kể cả sẽ được xuất bản tại Việt Nam như ngày nay.

PHAN CHÍNH

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Mười Hai 20201:49 SA(Xem: 11898)
Tôi yêu cây Khế, yêu từ thuở ấu thời cho đến bây giờ vẫn mãi còn yêu. Chiều hôm qua ngang qua nhà xưa của ba mẹ ở đường Phan bội Châu trời bỗng đổ mưa to; tôi đứng đụt mưa trước hiên nhà cũ, lòng chợt chùng xuống nhớ nhung kỷ niệm của một thời xa xôi và tôi nhớ cây Khế. Đó là kỷ niệm của tôi.
13 Tháng Tám 20203:03 CH(Xem: 14988)
Mãi tới năm 2010, hơn 45 năm sau, chúng tôi mới có dịp quay lại Phú Quốc. / Chuyến bay hôm đó, ngồi trong một máy bay cánh quạt của Nga, gần giống như máy bay DC3 thời xưa của Air Vietnam, nhưng xập xệ hơn nhiều. Bầu trời vẫn xanh, nắng vẫn rực rỡ, những đám mây vẫn bạc trắng tinh. Phía dưới những thị trấn nhỏ mới mọc lên bên các nhánh Cửu Long Giang. Ruộng đồng xanh mát không còn những hố bom đạn loang lổ như ngày xưa.
02 Tháng Sáu 20209:59 CH(Xem: 14912)
Ve, loài côn trùng quen thuộc với tôi từ tấm bé, nhưng vì sao lại gọi là ve sầu thì tôi không rõ lắm. Mãi sau này biết sầu, mới dần dà nhận ra (!) Ngày xưa rất xưa, thời dân làng chỉ nhận tin qua giọng loa vang vang sau tiếng cốc cốc của mỏ làng vào rạng sáng hay lúc chiều sập tối, thủa tôi còn loăng quăng bám chéo áo ngoại ra vườn, tiếng ve đã in vào trí óc non nớt của tôi rồi.
17 Tháng Năm 20208:17 CH(Xem: 6624)
Những cơn mưa chiều hiu hiu nhẹ giăng ngang qua thành phố, hàng cây Anh Đào trụi lá khẳng khiu, chúng tôi như thường ngày đội mưa xuống phố. Nhuần lúp xúp chạy…Được mấy ly cà phê…Hiệp cười trong bụi mưa… Bốn thằng ba ly, tốt chán… Bửu vỗ bình bịch vào ngực…Một bịch thuốc rê đây này…Tôi lặng lẽ đi theo các bạn mình và vu vơ thầm đếm bước chân… Chiều một mình qua phố. Âm thầm nhớ nhớ tên em… Ở đây buồn quá, thành phố hiền hòa và nhỏ nhắn như bàn tay, chúng tôi thường rủ nhau lang thang qua các nẻo đường trước khi đến quán cà phê.
25 Tháng Ba 20209:25 CH(Xem: 16356)
Đêm đêm, nhất là những đêm trăng sáng, thỉnh thoảng có những “sinh hoạt” gì đó tôi cũng chẳng biết. Và thỉnh thoảng, có những đoàn quân rất đông người với bao nhiêu là súng ống đạn dược, kéo về trong một đêm, rồi sáng sớm hôm sau họ lại lên đường. Chắc là đánh nhau ở đâu đó. Tôi nghe loáng thoáng cha mẹ tôi nói là bộ đội chủ lực gì gì đó.
23 Tháng Giêng 20201:14 SA(Xem: 17024)
Mấy hôm rày tôi không hát " ầu ơ ví dầu..." để ru cháu ngủ mà hát thật "mùi" cái bài "Đón xuân này tôi nhớ xuân xưa". Cái thằng cu Ben em cu Tèo nghe êm tai nó "phê" một giấc. Bởi vì "ruột gan" của quại nó có gởi qua đó để hát mà lỵ Bây giờ già già thiệt rồi nên cứ hay nhắc câu: " Nhớ hồi xưa!!...". Mà nhớ gì nhất nào!? Chắc ai cũng như tôi. "Nhớ Tết nhất!". Đó là nỗi nhớ nồng nàn nhất trong muôn nỗi nhớ của cuộc đời.
13 Tháng Mười Hai 20198:55 CH(Xem: 15161)
Ba giờ sáng…tôi bước ra đường, những ngọn gió cuối tháng chạp như con ngựa hoang lồng lộng chạy qua các nẻo phố. Tôi lặng lẽ đi dưới hàng cây Phượng vĩ già trong rét mướt yên tĩnh đêm sâu. Có tiếng rao…Ai bánh nậm, bánh dày đây… cất lên trong khoắc khoải, một vài chiếc xe ba gác chở hàng sớm xình xịch chạy qua lầm lũi.
07 Tháng Mười Một 20198:36 CH(Xem: 19990)
Trong thời niên thiếu, anh cũng như một số bạn đều mê đọc tiểu thuyết, đọc thơ của các văn thi sĩ tiền chiến. Trong các nhóm nhà văn đó thì nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã ảnh hưởng đến anh nhiều nhất. Văn của họ nhẹ nhàng, trong sáng, với những truyện tình lãng mạn lồng trong khung cảnh quê hương đơn sơ và lúc nào cũng man mác tình yêu. Truyện của họ, không lúc nào thiếu trong tủ sách gia đình của anh. Trong nhóm đó, Nhất Linh được anh coi như một mẫu người lý tưởng, một nhà văn, một chiến sĩ cách mạng. Nhiều nhân vật trong truyện đã in sâu vào ký ức anh. Họ không những đã trở thành một phần đời sống của anh mà đôi khi lại là những giấc mộng không thành. Trong những năm cuối cuộc đời, ông xa lánh cảnh trần tục, như một tiên ông quy ẩn bên dòng suối Đa Mê của rừng lan Đà Lạt.
31 Tháng Mười 20191:28 SA(Xem: 17393)
Khi tôi đi gần hết cuộc đời tôi mới nhận ra được điều kỳ diệu nhất trên đời này là tôi có Mẹ. Mẹ là ánh sao, tỏa ánh sáng dịu dàng mang cho tôi đến thế gian này. Khi tôi đi đến cuối con đường tôi chợt nhận ra rằng mẹ là người sống cạnh tôi nhiều nhất hơn hẵn tất cả những người mà tôi đã gặp ở thế gian này. Chín tháng mười ngày mẹ mang tôi tận ở trong lòng, tôi ăn ngủ, buồn vui từ mẹ chở che và chia sẻ cho tôi. Cho đến lúc chào đời, tôi cũng được nằm sát bên mẹ, mẹ lại chuyền hơi ấm, chuyền dòng sữa ngọt ngào món ăn đầu đời cho tôi đủ sức chào đón thế giới bên ngoài.
24 Tháng Mười 201912:51 SA(Xem: 16477)
Lúc đó vào khoảng 22giờ45 tối ngày 08-10-2019 tôi bỗng nghe chuông điện thoại reo.Sau đó là giọng Ngô nguyên Nghiễm.Anh báo tin nhà thơ Trần tuấn Kiệt đã mất mất lúc 5 giờ sáng. Tháng 9-2018 gia đình chuyển từ Cao lãnh về Sai gon tôi có đến thăm . Anh gầy lắm lại ho nhiều., cứ mỗi lần nói vài tiếng lại ngừng để và ho.gặp lại anh em cũ anh như khỏe hẳn lên, nói rất nhiều và cũng ho rất nhiều.Anh ở nhà thui thủi một mình. Suốt ngày ngồi trên cái ghế đồng thờicũng là "giường ngủ"...Mùng hai tết Kỉ hợi tôi lại ghé thăm . Anh rất vui. Dù sức khỏe suy giảm rất nhiều nhưng vẫn đem mấy bài thơ (khoảng bảy bài thơ dài) anh mới sáng tác đọc cho tôi nghe, vừa đọc vừa ngừng đế thở và ho. Tôi nói anh nghỉ cho đỡ mệt, nhưng anh vẫn đọc tiếp, đọc một hơi cho đến bài cuối cùng tưởng như không còn dịp để đọc nữa. Sợ anh quá mệt , tôi tìm cách giã từ anh ra về dù muốn ở lại nghe anh đọc nữa.Tôi dịnh bụng mai mốt sẽ tới thăm anh không ngờ... Sáng ngày 9-10 2019 tôi tới vĩnh biệt a