- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NGUYỄN BẮC SƠN, GÃ GIANG HỒ HẢO HÁN

27 Tháng Tám 20158:59 SA(Xem: 33884)

 

NguyenBacSonBW

Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn. Ảnh: từ blog La Văn Tuân



Mười năm nhỉ, mười năm khuất nhục
Ngồi khua ly trong quán cô hồn
Cô độc quá người thanh niên khí phách
Trời đất bao la mà không chỗ dung thân.

Kỳ lạ nhỉ, giờ đây ta bỏ xứ
Theo trái phong du níu gió lên trời
Xin bái biệt cổ thành với nhà ga hoang không thiết lộ
Khói của chòi rơm, bãi cát trăng soi.
(Bỏ xứ - Nguyễn Bắc Sơn)

“ Đời kẻ làm thơ thường nhục nhiều hơn vinh, buồn nhiều hơn vui, những kẻ vừa làm thơ vừa hành tập Đông Phương triết đạo thì thường thanh thản, thường có những niềm vui nội mật, thường mỉm cười an thân lập mệnh, khi qua đời, tôi xin được mỉm cười” Tự bạch Nguyễn Bắc Sơn (1)

 

Nguyễn Bắc Sơn, sinh năm 1944 tại Phan Thiết, Bình Thuận một miền biển nhỏ ở Miền Nam Trung bộ Việt Nam. Ngay từ nhỏ ông đã ngang tàng, sống yếm thế, nhiều lần tử tự nhưng không chết, năm 15 tuổi, ông lên nghĩa địa, cắt gân tay, nằm chờ, may có người thấy đã cứu. Sau đó, ít nhất 3 lần nhà thơ nhảy lầu tự tử nhưng thần chết thấy ông chưa tới số nên còn nhẹ tay. Sinh ra và lớn lên trong thời loạn ly, như bao người thanh niên khác Nguyễn Bắc Sơn cũng vào lính, ông là binh nhì, lính địa phương quân của chính quyền Sài Gòn trước năm 1975.

 

Năm 1972, Nguyễn Bắc Sơn in tập thơ “ Chiến tranh Việt nam và tôi”, lập tức được giới văn nghệ và đặc biệt lính chiến sài gòn yêu thích vì lối viết phóng túng, giang hồ như các nhân vật du đãng trong tiểu thuyết thời thượng của Duyên Anh ngày đó. Nhưng là loại giang hồ hảo hán không phải loại du côn. Thơ của ông không câu nệ hình thức, với lối viết thoải mái, nghĩ đến đâu viết đến đó, phóng bút rất nhanh bất cứ ở đâu và hào phóng tặng bạn bè.

Một trong những đoạn thơ nổi tiếng mà bất cứ người lính Miền Nam nào cũng thuộc lòng:

Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
Vung tiền mua vội một ngày vui
( Mật khu Lê Hồng Phong )

 

Mới nghe chừng mang chất du đãng, nhưng đoạn thơ trên phản ánh nỗi sầu đời, bi phẫn của một thế hệ thanh niên, sống không biết ngày mai, cuộc đời phó thác cho mũi tên đường đạn, đọc thơ ông tôi liên tưởng đến những câu thơ của gã lãng tử Bùi Chí Vinh, một nhà thơ sống sau ông một thập kỷ cũng có lối viết ngang tàng, bất cần đời như vậy:

 

Bằng sáng tác của mình
Tôi nhổ nước bọt vào những điều lừa mị
Tôi hôn thiết tha người con gái nghèo làm đĩ
Và bạt tai đứa công chúa hợm mình
Tôi cho Lệnh Hồ Xung nói tục với Doanh Doanh
Và Trương Vô Kỵ gọi Triệu Minh bằng ả
Tôi theo phò người giang hồ quân tử
Và tẩy chay đám quyền quý nịnh thần
Tôi sẵn sàng đạp xích lô đến chỗ hẹn với tình nhân
Và mặc quần rách dìu nàng đi ăn phở
(Mở - Bùi Chí Vinh)

Có lẽ cùng một nòi tình nên khi gặp Bùi Chí Vinh, Nguyễn Bắc Sơn không hết lời ca ngợi: “Rằng thơ ta ngông như Tạ Tốn/Câu trước câu sau Đồ Long đao/Vần dưới vần trên Ỷ Thiên kiếm”. (2)

 

Tôi biết Nguyễn Bắc Sơn hơn mười năm trước, khi tìm tài liệu viết về chiến tranh Việt Nam. Ngày ấy, tài liệu in trong nước viết về Văn học Miền Nam hầu như không có, nên tôi truy tìm trên mạng, tình cờ đọc được bài thơ “Việt Nam chiến tranh và tôi” trong Tổng tập văn học Miền Nam của Võ Phiến với giọng thơ lạ, nói với kẻ thù như nói với một người bạn, những câu thơ tức khắc thấm vào tôi và tôi đã dẫn chứng trong chuyên luận của mình, nhằm so sánh ý thức về chiến tranh của người lính cộng hòa Miền Nam và bộ đội Miền Bắc.
Để minh chứng cho một thời đại đầy biến động này, chúng ta hãy đọc bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn khi viết về bộ đội miền Bắc với một giọng thơ ngất ngưởng:

 

Kẻ thù ta ơi, những đứa xăm mình 
Ăn muối đá và điên say chiến đấu 
Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu 

Đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo 
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo 
Xem chiến cuộc như tai trời ách nước 
Ta bắn trúng ngươi, vì ngươi bạc phước 
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi 
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi 
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí 
Lũ chúng ta sống một đời vô vị 
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau”... 
(Chiến tranh Việt Nam và tôi ) 


“Những đứa xăm mình”, những con người ấy cũng một dòng máu như ta thôi. Trong lúc người lính Cộng hòa đã nhận ra cuộc chiến này “cũng chỉ một trò chơi” thì... phần đông “Kẻ thù ta ơi” đều “điên say chiến đấu”, đều tin chắc vào chính nghĩa của cuộc chém giết, đều hô hào cổ võ tàn sát một cách trịnh trọng. “Kẻ thù ta ơi” là một thế hệ tươi sáng, họ là những học sinh, sinh viên đầy nhiệt huyết, được đào tạo từ nhỏ về lòng yêu nước, yêu nước ở đây đồng nghĩa với ý thức của chủ nghĩa cộng sản về nhiệm vụ và sứ mệnh. Yêu nước ở đây đã gắn liền với một thể chế. Đây lại là một bi kịch khác.

Một người lính Cộng hòa nói với một bộ đội miền Bắc, như nói với anh em và quả thật họ là anh em cùng giống “da vàng mũi tẹt” mà ra. Ta đối với chú mà nói được lời như thế vì lòng ta đã tới độ nguội lạnh, không còn gì khuấy động nổi một cơn điên say nữa. Đao to búa lớn: vô ích. Danh từ cao đẹp: vô ích. Lý tưởng thiêng liêng: vô ích.

 

Chính vì vậy, sau khi kết thúc chiến tranh, đã có những cuộc gặp kỳ lạ. Năm 1974, trong lúc làm biên tập viên phần văn hóa văn nghệ tờ Quân đội nhân dân, nhà thơ Anh Ngọc ở Hà Nội có tổ chức một trang chuyên đề về nền văn học trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Nhà nghiên cứu Thạch Phương đã mở đầu bài viết của mình bằng những dòng: “ Có một thời những người lính Sài Gòn truyền nhau mấy câu thơ của Nguyễn Bắc Sơn: 


Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
Vung tiền mua vội một ngày vui

 

Cái tên Nguyễn Bắc Sơn đã gợi cho đại tá Anh Ngọc bao nhiêu tò mò, ông thổ lộ: “Với một người lớn lên ở Miền Bắc, được giáo dục dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa, thì cái thế giới trong thơ Nguyễn Bắc Sơn quả là xa lạ, đó là một thế giới mà ông không bao giờ có ngày gặp gỡ và thông cảm được. Ấy thế mà lịch sử xoay chuyển thật nhanh. Sau ngày 18-4-1975 nhà thơ Anh Ngọc một đại tá trong quân đội nhân dân, tiếp quản Phan Thiết, trong một buổi mít tin của giáo chức thị xã, ông giật mình khi nghe anh Vĩnh Giên giới thiêu, anh Nguyễn Bắc Sơn, thi sĩ...sau đó, nhà thơ Anh Ngọc đã đón đầu nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn và trong vòng 5 phút, bằng bản tính nồng nhiệt và sự hào sảng của cả hai, họ đã biến thành bạn tri kỷ của nhau. Nguyễn Bắc Sơn chở Anh Ngọc trên chiếc xe đạp mini của mình về căn nhà nhỏ và tặng bạn tập thơ “Chiến tranh Việt nam và tôi” , Nguyễn Bắc Sơn hóm hỉnh hỏi: Ông có dám mang nó trong ba lô không? Anh Ngọc trả lời: Sao lại không?.(3) 
Nếu họ gặp nhau vài ngày trước đây, họ là kẻ thù trên hai chiến tuyến, và tôi không bắn anh thì anh bắn tôi, đơn giản như vậy thôi.

 

Một lần vào Sài Gòn, thăm tòa soạn Quán Văn, chủ biên Nguyên Minh mời gọi tôi viết bài về Nguyễn Bắc Sơn, tạp chí sắp ra chuyên đề này, tôi thích thú, vì đã biết tên ông lâu rồi, thật tiếc, lần đó tôi không có thời gian để viết bài kịp in trong chuyên đề này.

Sau này tham khảo tài liệu, tôi mới biết ngoài những bài viết về chiến tranh với lối viết ngang tàng, ông còn là một hảo hán, sống kiểu giang hồ Lương Sơn Bạt, yêu thích bạn bè:

Vì ta nghĩ trời sinh một mình ta là đủ
Bởi đám đông quậy bẩn nước hồ đời
Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn
Để choàng vai ấm áp cuộc rong chơi
(Mai sau dù có bao giờ)

 

Trong “Chân dung Nguyễn Bắc Sơn” ông tự họa:
...Trên trái đất có rừng già, núi non cùng sông biển
Trong Nguyễn Bắc Sơn có một kẻ làm thơ
Kẻ làm thơ đôi khi biến thành du đãng
Hoặc làm thơ theo khí hậu từng mùa

 

Nguyễn Bắc Sơn thường ví mình là du đãng, theo kiểu như vầy:

Tiếc mày không gặp ta ngày trước 
Ta cho mày say quắc cần câu 
Rượu bia bốn chục chai đồ bỏ 
Uống từ chạng vạng suốt đêm thâu

Thành phố giới nghiêm ta ngất ngưởng 
Một mình huýt sáo một mình nghe 
Theo sau còn có vừng trăng lạnh 
Cao hứng cười buông tiếng chửi thề

Thời đó là thời ta chấp hết 
Lửng lơ hoài trên chiếc đu bay 
Đời mình như rượu còn ly cặn 
Hắt toẹt đời đi chẳng nhíu mày
(Tha lỗi cho ta)

 

Và chìm khuất sau những câu thơ ngông nghênh ấy là đau xót không nguôi cho phận người trong chiến tranh:

 

Mày về thăm ta như chuột lột 
Thất thểu chỉ còn xương với cốt 
Tráng sĩ kia hề qui cố hương 
Thê thảm còn hơn thằng cốt đột 
Tráng sĩ kia hề qui cố hương 
Chinh chiến sao mày không chết tốt 
Dăm đồng rượu trắng vội bày ra 
Nhậu để khói sầu lên ngút ngút 
... 
Ngửi mày một tị xem làm sao 
Thân thể mày bay mùi binh đao 
Ngày trước mày hiền như đất cục 
Giờ mở miệng ra là chửi tục 
Hà hà ra thế con nhà binh 
(Bài hát khổ nhục)

 

Với chiến tranh ông bất cần đời, với bạn bè ông hào sảng. Người đời gọi ông là trang hảo hán, có nghĩa khí, với mọi người ông chỉ biết cho đi. Nghe kể có lần con gái mua cho Nguyễn Bắc Sơn chiếc xe đạp mới, khi về ông đi tay không, hỏi ra mới biết ông cho một đứa nhỏ hàng xóm đi học xa mà không có xe đạp. Bạn bè của ông nhiều vô kể, ai cũng quý cái tâm trong sáng của nhà thơ, việc ông hàng ngày ra đường gặp ai cũng vơ hết tiền trong túi cho từ một người quét rác ở công viên, đến người bạn văn chương túng quẫn, một em bé bán vé số...là việc bình thường, mỗi ngày giúp đỡ được ai là lòng ông hạnh phúc. Với nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn tiền bạc là phù du, ngày ba bữa, vui chơi rong ruổi cùng bạn bè. Ông giúp người cũng theo kiểu của mình. “Cái thằng, con lóc nhóc cả năm đứa. Nghèo rớt mồng tơi. Thuê xích lô trả tiền ngày để đạp, mong kiếm đủ tiền đong gạo. Nó ở sát nhà cũ của tui. Thương mấy đứa nhỏ, tui hay lén lão bà bà xúc gạo cho nó. Bửa đó, tự nhiên nó xuất hiện ở ngõ hẻm nhà tui. Tui thấy, bèn dắt xe đạp về cất. Rồi leo lên xích lô cho nó chở đi lòng vòng suốt đường này qua phố nọ, sau đó trực chỉ quán cà phê”. Thì ra, ông đã giúp người nghèo rất tự nhiên. Và Bảy xích lô đã nhận tiền xe gấp năm gấp bảy lần mà không hề áy náy. (4)

 

Như một thiền sư, thơ ông đôi lúc đậm chất Lão trang, Phật:

 

Nằm ngữa mặt ở bên trời lận đận
Ta và ngươi, hai gã cóc cần đời
Đời mạt pháp, con người mạt hậu
Có một tấm lòng, rồi cũng chỉ rong chơi
...
Sương mù, sương mù, ừ sương mù
Khuya về trăng mọc ngọn mù u
Cầm ống sáo đồng, gõ vào vách núi
Tráng sĩ hề! Lạnh thấu thiên thu
...
Em ni cô ta là thi sĩ
Có lúc thần tiên, lúc ngạ quỷ
Cầm kinh địa tạng ở trong tay
Mà uống rượu sầu, say bí tỉ
...
Nhảy tòm xuống suối giỡn trăng khuya
Hát khúc vọng tình, khúc nhớ quê
Quê Nhà xa tít và xa tắp
Non nước cháy hương chẳng chịu về

Bát cơm Hương tích Phật
Thọ dụng suốt đời vẫn thấy dư
Nhưng thiếu tình yêu và tình bạn
Làm sao cho khỏi ngất ngư

(Tháng chạp sầu đời bên núi lạnh)

 

Nhưng thiếu tình yêu và tình bạn, làm sao cho khỏi ngất ngư, thật vậy, đời ông không thiếu bạn bè, nhưng tình yêu của ông là những cuộc tình khắc khoải, đi qua đời nhau nhưng không dừng lại:

Chiều mù sương vì tình yêu mù sương
...Con phố thân quen bất ngờ con phố lạ
Nơi hàng cây rụng tiếng tắc kè kêu
Nơi lầu cao khung cửa sổ đìu hiu
Soi thấp thoáng ngọn đèn hoa thiếu nữ
...Đi ngang qua, đi ngang qua
Đi ngang qua
Đi ngang qua không dừng trong đời nhau...
( Mùa thu đi ngang qua cây phong du)

 

hay những mối tình thầm lặng của những người lính trẻ trong thời chiến như ông, bạn bè ông, yêu nàng nhưng chỉ dám nhìn nàng từ xa qua khung kính, chỉ để thấy má em ửng hồng, khi trên lưng còn cõng chiếc balo trên đường hành quân. Trong thời chiến tranh “Tình yêu đôi khi là xa xỉ phẩm” nói như nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.

 

Ừ Đà Lạt ngoài khung cửa kính
Giàn su xanh thuở má em hồng
Và ta, kẻ mười năm không áo lạnh
...
Đà Lạt, lạc đà dăm bảy đứa
Còng lưng ra mà cõng ba lô
Những hào sĩ đứng bờ nhật nguyệt
Vỗ tay cười thương lớp sóng lô nhô
(Chiêm bao về Đà Lạt)

 

Ngày trước, có lần nghe bạn tôi ngâm nga
Ta đọc ba ngàn quyển sách
Xong rồi chẳng nhớ điều chi
Ta chỉ nhìn em một cái
Sao mà nhớ đến mê si
mà không biết rằng đó là bài thơ “Giai nhân và sách vở” của Nguyễn Bắc Sơn.

 

Trong lời tự bạch, nhà thơ viết 
“... còn lòng trần? Tôi vẫn còn, nói như thiền sư Nhất Hạnh trong “Giấc mơ Việt Nam”, tôi vẫn còn “Giấc mơ Việt Nam”. Đã biết “nhân sinh nhược đại mộng, hồ vi lao kỳ sinh” mà vẫn sống nồng nàn với “Giấc mơ Việt Nam”. Ấy là lòng kẻ làm thơ. Ai cũng vậy thôi...” (5)
Tôi tin rằng, trước khi qua đời “gã giang hồ, hảo hán” này sẽ mỉm cười, như “đứa trẻ nghìn năm trước/ Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta”.

 

BAN MAI
18/8/2015

---------------------------------
Tài liệu tham khảo:

(1),(5) Trần Hữu Dũng - Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn- TC Quán Văn số 23 06/2014

(2) Bùi Chí Vinh- Cách nhậu của Nguyễn Bắc Sơn

(3) Anh Ngọc - Cuộc hội ngộ lạ lùng quá sức tưởng tượng- TC Quán Văn số 23 06/2014

(4) Nguyễn Thị Liên Tâm - Đồng tiền rong chơi-SĐD

Ý kiến bạn đọc
04 Tháng Ba 20206:37 SA
Khách
Phan thiết mất ngày 19 tháng 4 chứ không phải ngày 18 .Nếu ngày 18 Anh Ngọc mò vào phan thiết không biết chừng ăn đạn của Nguyễn Bắc Sơn lúc đó
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
26 Tháng Hai 20154:33 SA(Xem: 31263)
Nah có nghĩa là Không, và em bảo em đã đi hết vòng tròn của chữ không trong đạo phật rồi. Đối với tôi, em là một loài chim lạ, con chim tuyết trong bài hát Snowbird của ca nhạc sĩ xứ Quebec, Gene MacLellan.
26 Tháng Hai 20154:17 SA(Xem: 32396)
Hôm nay, chúng tôi trở về thăm lại nền nhà xưa của nội. Ngày ba sống đã từng ao ước sẽ dẫn đàn con trở về thăm quê cũ. Bây giờ nếu ba còn sống, chắc ông sẽ hạnh phúc lắm. Khu vườn của nội cây chằng chịt, nền đất cũ hoang tàn, ngôi nhà tranh vách đất của nữa thế kỷ trước vẫn đứng im lìm trong nắng sớm. Cây cổ thụ có một tổ ong to đang làm mật. Chu vi khuôn viên đã bị lấn chiếm nhiều.
18 Tháng Hai 20156:51 SA(Xem: 28737)
Tết thường được nhắc đến với những món ăn đặc trưng “thịt mỡ dưa hành,” và những mùi hương gây nhớ “thoảng mùi khói pháo thoảng mùi nhang.” Nhưng mỗi đứa trẻ mang theo nó một món ăn một hình ảnh một mùi hương riêng, không hẳn giống như những gì chúng ta thường gợi nhắc.
17 Tháng Hai 20153:10 SA(Xem: 29561)
Năm Mùi lại sắp đến và ta thường hỏi là tại sao tên gọi là Mùi, không là dê, dương hay vị ...? Phần này đưa ra vài cách nhìn hầu giải thích phần nào các lý do dẫn đến hiện tượng trên.
28 Tháng Giêng 20151:28 SA(Xem: 32046)
Anh G thân mến, Gửi bài cho anh về hội họa để cho vào Văn Học số sau, chẳng nhớ tôi có nói gì về hai cái truyện ngắn của Mai Kim Ngọc và Vũ Quỳnh Hương không? Hai truyện của Thế Giang quả là đặc biệt. Nhưng tôi nghĩ “khám phá” lớn kỳ này của Văn Học là MKN và VQH. Rất khó tin rằng đó là hai cây bút mới. “Mới” từ lúc nào?
13 Tháng Giêng 201512:08 SA(Xem: 31884)
Sài Gòn tháng Mười Hai, tôi về trời nóng dịu và nắng êm. Nơi phi trường, anh Hải quan trẻ tuổi hỏi nơi sinh của chúng tôi và lập lại _ Sài Gòn, Hà Nội _ với một nụ cười. Ra khỏi phi trường em gái tôi nói cho tôi hiểu, anh ta nháy mắt với bạn đồng nghiệp đứng kề là không có tiền kẹp vào passport đó.
09 Tháng Giêng 201512:49 SA(Xem: 32470)
Cách đây ít lâu tôi đọc một bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai với tựa đề “Hầu chuyện với anh Trương Tấn Sang” bài viết của ông xoay quanh hiện trạng của đất nước. Như một lời nói thẳng, nói thật, một lời tâm tình dựa trên câu nói mớm của ông Trương Tấn Sang khi tiếp xúc cử tri tại Sài Gòn. Ông Sang nói: “Chúng tôi sẵn sàng nghe những ý kiến cay đắng”.
21 Tháng Mười Hai 201412:28 SA(Xem: 30450)
Rỗng, vì điểm lại, từ hồi tôi biết đến giờ, từ hồi cụ ngoại tôi còn sống đến giờ, cả họ nhà tôi, chưa ai có được một mối tình đầu bạc răng long, chung thủy một lòng, nồng nàn như nhất để tôi có dịp nắc nở ghen thầm và mơ thầm.
13 Tháng Mười Hai 20142:47 CH(Xem: 32753)
Bài viết chỉ là hồi tưởng với những kỷ niệm rất riêng tư về một người bạn tấm cám Nghiêu Đề, với mối giao tình hơn nửa thế kỷ; người viết không ở trong giới hội hoạ nên cũng không dễ dàng để viết một hoạ sĩ tài hoa, sáng tác tuy ít nhưng đã để lại dấu ấn lâu dài trong lãnh vực nghệ thuật tạo hình của Việt Nam, qua một giai đoạn đầy sáng tạo trong những năm 1960-1970 với Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam mà Nghiêu Đề là một trong những thành viên sáng lập với cá tính nổi bật. (Ngô Thế Vinh)
10 Tháng Mười Hai 20141:48 SA(Xem: 31868)
Khoảng mùa hè năm 1985, Bửu Ý vào chơi Sài Gòn. Ở thành phố này, thời gian của anh thường dành cho, quanh quẩn, với những người bạn thân Đinh Cường, La Quang Thanh, Trịnh Công Sơn, Tôn Thất Văn… Trong một lần ngồi với nhau, uống rượu, nói nhiều chuyện lan man từ trưa đến chiều, bỗng câu chuyện bất ngờ chuyển đề tài về vợ con.