- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Thụy Khuê Phỏng Vấn Chân Phương - Tình Hình Thơ Ca Việt Nam Hôm Nay

26 Tháng Chín 200812:00 SA(Xem: 15057)
chanphuong

(nhà thơ Chân Phương )

(phát biểu của nhà thơ Chân Phương trên Radio RFI ngày 21 - 8 - 2004 )

Thụy Khuê: Đề tài thì rộng nhưng chắc là anh đã nắm được những nét chính trong quang cảnh chung của giới làm thơ trong và ngoài nước hôm nay?

Chân Phương: Chúng ta có thể tóm tắt quang cảnh chung dưới hai nét:

1. Thực tế gần như bất biến là chính sách văn hóa của nhà nước, một chính sách vẫn còn ngăn cấm tự do tư tưởng và sáng tác. Vì thực tế ấy, những người muốn tìm hiểu về sáng tác thơ trong nước gặp khó khăn. Tôi hình dung đó là một tảng băng thạch, chúng ta chỉ thấy được phần nổi. Thỉnh thoảng chúng ta đọc được một tập thơ của Đặng Đình Hưng, hay gần đây thơ Phùng Cung hoặc nhật ký Trần Dần vừa được công bố, ngoài ra còn biết bao tác phẩm hay khác vẫn còn nằm trong bóng tối. Theo các cuộc phỏng vấn gần đây trên Hợp Lưu, các nhà thơ như Vi Thùy Linh cũng tâm sự rằng có nhiều tác phẩm thơ hiện giờ cũng bị ngăn cấm không cho xuất bản.

2. May thay sự tiến bộ về kỷ thuật cũng như sự mở mang về giao lưu văn hoá và du lịch đã cho những ngươì sáng tác trong nước có điều kiện tiếp xúc một cách dễ dàng hơn với thế giới bên ngòai. Đó là điều thay đổi rất quan trọng so với một thập niên trước đây.

TK: Theo anh, những yếu tố nào đã góp phần vào sự thay đổi bộ mặt của thi ca VN hiện nay so với 10 năm trước đây?

CP: Từ sự tham quan và thăm viếng đã hình thành các mạng quan hệ giữa giới sáng tác trong và ngoài nước. Người ta có thể chuyền tay nhau bản thảo, lắng nghe những điều tâm sự chưa được phổ biến công khai. Do sự tiếp xúc và giao lưu ấy hai năm trước đây một tuyển tập thơ đã ra đời Hai mươi sáu nhà thơ VN đương đại. Đó là một cố gắng hợp tác rất đáng khích lệ. Một mặt tốt khác của giao lưu là dịch thuật. Các nhà thơ VN đã chủ động hợp tác với các nhà thơ thế giới cũng như báo chí và xuất bản để giới thiệu thơ VN ra nước ngoài. Ở Hoa Kỳ, chúng ta biết Đinh Linh, Nguyễn Hoàng Nam đã góp sức với hai tạp chí Literary Review và Illuminations để giới thiệu thơ VN. Còn bên Pháp, tạp chí Europe đã hợp tác với Dương Tường, Hoàng Hưng để giới thiệu một chùm thơ VN trước đây hai năm, hoặc Diễm Châu đã tiếp xúc với một số nhà thơ Đông Âu và thơ VN cũng được dịch sang tiếng Rumani chẳng hạn. Ngoài dịch thuật, chúng ta không nên quên mặt truyền thông. Phải nói là các đài phát thanh lớn thế giới cũng góp phần tích cực trong sự giới thiệu đó. Internet là điều không ai phủ nhận, internet với các website mới là nơi giúp cho giới sáng tác trong nước có thể đăng kịp thời những trang bản thảo của mình, vượt qua vòng kiềm tỏa của chế độ văn hóa trong nước. Phần lớn các người sáng tác hôm nay đều sử dụng được máy điện toán và thường xuyên trao đổi với nhau qua những bức thư điện tử.

TK: Đọc những bài thơ xuất hiện trong và ngoài nước hiện nay, chúng ta có thể nói đến một xu thế hay một tính chất chung trong thơ ca thời nay không?

CP: Từ đầu thập niên 80 đến nay qua sáng tác thơ ca trong và ngoài nước tôi thấy có một xu thế ngày càng được khẳng đinh và mở rộng; đó là tính hiện đại. Tính hiện đại nổi bật ở hai mặt: Ý thức phê bình của các nhà thơ và Tinh thần thể nghiệm. Ý thức phê bình giúp cho họ không làm dáng, tránh đi lại những lối mòn khuôn sáo của sáng tác nương theo thẩm mỹ tiền chiến, nghĩa là còn nặng kiểu cách và vần điệu. Ý thức đó giúp họ ý thức rõ hơn về bản sắc của mình, đưa tiếng nói của từng nhà thơ vào trong tác phẩm. Điều này đi cùng xu thế chung của thơ thế giới, ở Pháp người ta gọi đó là oralité, nghĩa là khẩu ngữ. Mỗi nhà thơ, nhà văn đều cố gắng khai phá vùng đất riêng ấy của mình vì khẩu ngữ của từng người là điều đặc thù không lầm lẫn được. Dùng tiếng nói hàng ngày vừa thô sượng vừa gân guốc ấy khiến cho đề tài của thơ cũng đa dạng hơn. Những chuyện linh tinh của cuộc sống, người Pháp gọi là faits divers, ngày càng xuất hiện nhiều hơn trong thơ. Chúng ta thấy chẳng hạn Nguyễn Đạt làm thơ về "Cái bánh bao", hay Nguyễn Hoàng Nam trong bài "Trả tiền":

Những ngón tay uể oải, trong bàn tay rịn ẩm

mò túi sau, ngừng, thói quen dò dẫm độ cộm

Móc bóp ra, cánh tay xoay hình cung quen thuộc

nâng lên trước mặt, ngón cái luồn vào giữa bật ra

số phone, địa chỉ, bằng lái, an sinh xã hội, credit card,

những hàng số nhắc hờ sự có mặt của tôi

(26 Nhà thơ VN đương đại)

Những sự kiện bình thường ấy cũng xuất hiện trong thơ của Thường Quán, Đỗ Kh. Về phía các nhà thơ nữ, họ đưa vào sáng tác những suy nghĩ về thân phận đàn bà, trách nhiệm gia đình, ước mơ hạnh phúc, những phấn đấu để tồn tại trong xã hội di dân với nhiều mặt khó khăn của nó. Chúng ta thấy đề tài đó xuất hiện trước đây trong thơ Trân Sa, Nguyễn Thị Hoàng Bắc. Gần đây có Lê Thị Thấm Vân, Đỗ Lê Anh Đào. Trong nước Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, cũng là những đại diện cho dòng thơ nữ. Đó là dòng thơ có ý thức về chỗ đứng của mình, đòi hỏi một vị trí tốt hơn cho người đàn bà trong xã hội. Có thể gọi đó là ý thức nữ quyền đang phổ biến trên thế giới.

TK: Như anh vừa nói nội dung thơ bây giờ thiên về những sinh hoạt trong đời sống hàng ngày. Nếu nói về hình thức diễn đạt thì anh thấy những hình thức ấy ra sao?

CP: Với ý thức phê bình vừa nói, các nhà thơ có nổ lực tìm kiếm cho mình những cách diễn đạt khác mới hơn. Trong xu hướng thể nghiệm ấy, thơ tự do, có nghĩa là phá thể, không dùng những niêm luật cũ nên câu thơ có tính cá nhân hơn. Mỗi người viết với một cú pháp riêng. Sự thể nghiệm cũng hiện ra trong những bài thơ đậm về ý tưởng, dùng nhiều hình tượng và so sánh ẩn dụ. Trong ca khúc trước đây Trinh Công Sơn đã thành công trong chiều hướng ấy, và hôm nay trong thơ của các thi sĩ VN chúng ta thấy nổ lực dùng tư duy hình tượng thỉnh thoảng đi gần đến thi pháp siêu thực. Một thí dụ là thơ Đinh Linh trong những bài thơ của anh, thi pháp siêu thực đã được quán triệt. Ngoài thơ tự do, thơ văn xuôi cũng được khai thác mạnh. Kể từ tập Bến lạ của Đặng Đình Hưng, giới sáng tác trẻ đã kéo ngôn ngữ thơ đến gần với văn xuôi; và như vậy thơ VN cũng đang bị chất vấn về mặt thể loại: thơ có còn là những câu nhịp nhàng, vần điệu như ngày xưa chăng?

TK: Vậy thì sự giao lưu và mở rộng hiện nay sẽ mang lại cho thơ ca những kết quả gì?

CP: Tôi thấy ngoài mặt tốt của giao lưu mở rộng với những mạng hợp tác như tôi vừa trình bày thì thơ VN hôm nay cũng đứng trước một mối đe dọa: đó là sự toàn cầu hóa. Như chúng ta đã biết, văn hóa các nước hôm nay không tránh được xu hướng tất yếu ấy. Thế giới ngày càng nhỏ lại, sự trao đổi về văn hóa ngày càng chặt chẽ. Toàn cầu hóa đúng ra phải là một Tin Mừng cho chúng ta. Nhưng ở góc độ quan sát của tôi, đặc biệt là ở Mỹ, sự toàn cầu hóa này mà tôi gọi là toàn cầu hóa một chiều, phần lớn đã diễn ra, hoặc đang diễn ra dưới lá cờ Hoa Kỳ, và ngôn ngữ cũng như sách báo bằng tiếng Anh. Giới học thuật của Mỹ đã dùng từ anglo-globalism, nghĩa là chủ nghĩa văn hóa được phát biểu hoặc thể hiện chủ yếu bằng tiếng nói và văn hóa Anh - Mỹ.

Chúng ta không được quên rằng tiếp thu văn hóa là một quá trình công phu vì văn hóa cũng như nghệ thuật mang tính hệ thống rất cao. Đối với người ở nước ngoài trong giai đoạn di dân còn rất ngắn, sự tiếp nhận ấy vẫn chắp vá mặc dù có cố gắng học hỏi. Sự vá víu ấy gần đây được thể hiện ở một vài sự kiện: chẳng hạn trên tạp chí Thơ vài năm gần đây có một nhóm cổ xúy Tân Hình Thức. Họ gần như không biết rằng trên nền lục địa rộng lớn của văn hóa Mỹ, cộng thêm những nước sáng tác bằng Anh ngữ hiện nay, chúng ta có nhiều dòng thơ lớn nhỏ và hàng trăm trường phái. Nhưng trên tạp chí Thơ độc giả chỉ thấy Tân Hình Thức, và giới sáng tác thơ trong nước nếu thiếu thông tin sẽ có cái nhìn bị bóp méo về thơ trong thế giới nói tiếng Anh.

Mặt khác về sự tiếp thu về lý luận, sự tiếp thu này cũng khá gấp gáp, đại biểu là những người đề xướng học thuyết hay lý thuyết hậu hiện đại, loại lý thuyết cóp nhặt từ tư tưởng Pháp của thập niên 70-80 thế mà bây giờ lại được đề cao ở các đại học Mỹ! Người VN nếu chỉ đọc qua các tài liệu của các đại học Mỹ thì không thấy được, thứ nhất là nguyên ủy xuất phát của nó, thứ hai là vị thế của lý thuyết đó giữa bao nhiêu là học thuật và tư tưởng đa dạng khác của thế giới ngày nay. Theo tôi đó là những sự vá víu, gấp gáp trong quá trình học hỏi văn hóa trong giai đoạn toàn cầu hoá, và các nhà thơ VN phải có ý thức về điều đó nếu muốn tìm một bản sắc riêng.

TK: Để kết luận cho buổi nói chuyện hôm nay xin anh cho biết ý kiến riêng của anh về nền thơ ca VN hiện nay, nhất là thơ trẻ?

CP: Khi đọc những nhà thơ trẻ hôm nay tôi không thấy nhiều các quan tâm về bản sắc VN và bản sắc Đông Á. Vì dù muốn dù không, chúng ta vẫn nằm trong một truyền thống lớn, đó là truyền thống Á Đông. Năm nay tôi sang Pháp nhằm vào năm mà nước Pháp gọi là "Année de la Chine", có nghĩa là năm trao đổi văn hóa với Trung Hoa. Một nước biết quí trọng văn hóa như Pháp lúc nào cũng quan tâm đến những di sản lớn của thế giới mà văn hóa Trung Hoa và văn hoá Á Đông là một di sản vĩ đại. Thế mà người VN lại có vẻ lãng quên cái sở trường của mình mà chạy theo những xu hướng, theo tôi dù là của Âu-Mỹ nhưng dù sao vẫn còn mới. Nếu tìm hiểu về văn hóa Á Đông một cách có hệ thống hơn và chịu khó học hỏi, điều đó theo tôi sẽ đóng góp rất tốt cho sự sáng tạo thơ ca VN.

Thụy Khuê thực hiện (21 tháng 08, 2004)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
13 Tháng Ba 201412:00 SA(Xem: 33300)
V ừa qua trên các phương tiện thông tin đại chúng xôn xao các vấn đề liên quan đến giải thưởng Nhà nước, Hồ Chí Minh… Trò chuyện về ảnh hưởng tích cực của các giải thưởng, Nhà văn Vũ Đảm – Phó tổng Biên tập Tạp chí Nhà văn có đưa ra một vài ý tưởng rất đáng quan tâm. Ý tưởng này cách đây sáu năm đã được Nhà văn Vũ Đảm nêu lên trong một bản luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ văn hóa của mình. Sau đây là cuộc phỏng vấn với nhà văn Vũ Đảm do Thủy Hướng Dương thực hiện.
18 Tháng Bảy 201212:00 SA(Xem: 85541)
H ồi xưa, mẹ tôi thường theo mùa mà gọi những người đàn bà bán hàng rong vào nhà để mua hàng của họ. Mùa sen, mẹ tôi mua sen để lấy nhụy ướp trà, mùa cà cuống, mùa cốm, mùa sắn dây…
26 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 92576)
T rịnh Y Thư sinh năm 1952, tại Hà Nội. Viết văn, làm thơ, dịch. Tác phẩm đã xuất bản: Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being), tiểu thuyết của nhà văn Pháp gốc Tiệp Milan Kundera, tạp chí Văn Học xuất bản, 2002; Căn phòng riêng (A Room of One’s Own), lí luận văn học của nhà văn nữ Virginia Woolf, Tri Thức xuất bản, 2009. Người đàn bà khác, tập truyện, Thế Giới xuất bản, 2010. Hiện định cư tại bang California, Hoa Kì.
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 41232)
Lời toà soạn: Mùa thu năm rồi, dưới sự bảo trợ của chương trình học bổng Fulbright của Hoa Kỳ,Giáo sư Tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP-HCM/Sàigòn, đã có mặt tại Hoa Kỳ để thu thập chất liệu cho dự án nghiên cứu về các nhà văn nữ Việt tại hải ngoại. Trong dịp này, chị đã có dịp tiếp xúc với nhà văn/nhà báo Trùng Dương, cũng là một thành viên Fulbright của niên khoá 1990-91, và là một trong năm nhà văn nữ nổi tiếng nhất của nền văn học Miền Nam 1954-1975. Sau đây là cuộc nói chuyện giữa hai thế hệ văn học từ hai môi trường khác biệt, mà nhà văn Trùng Dương đã, với sự đồng ý của người phỏng vấn, dành cho tạp chí Hợp Lưu ...
15 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 101521)
N hạc sĩ Phạm Duy có cái nhìn xuyên suốt, không rào cản so với nhạc sĩ cùng thời. Người lắng nghe giao thoa những tiến triển nền âm nhạc Việt so với thế giới từ những năm 1930 cho đến nay.Từ cái bắt gặp đầu tiên trên bộ đồ bà ba xanh, đôi mắt sáng trên vành tai thính âm tài hoa ấy. Nhạc sĩ Phạm Duy chợt cười, nụ cười nhéo mắt luôn điểm lại con người ấy từng nốt nhạc vượt không gian thời gian. Hồn nhiên Phạm Duy cười nói: : “Tôi có hai con mắt, một con trái mắt tỉnh tảo thực tế với dòng đời. Và mắt phải luôn làm việc sáng tạo.” Cuộc phỏng vấn sau đây ghi lại một vài nét về cuộc đời nhạc sĩ Phạm Duy với thế hệ trẻ tại Việt Nam đang muốn cùng ông bày tỏ tâm sự.
23 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 150705)
..." n gười phê bình phải sáng suốt khảo sát tác phẩm và nhất là phải giữ khoảng cách đối với tác giả ...Cần phải nhớ rằng: Văn bản phê bình chỉ dành cho độc giả, không dành cho tác giả mà mình phê bình . Cho nên, nếu viết cho vừa lòng tác giả, đôi lúc, chỉ sản xuất ra những văn bản nịnh bợ... " (Thuỵ Khuê)
25 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 77492)
C uộc phỏng vấn Cổ Ngư, Thận Nhiên, và Đỗ Lê Anh Đào với những tiêu đề: "Trở về cùng nhịp thở đất nước; Thơ, con đường ngắn nhất ; Việt Nam, không chỉ là một cuộc chiến" đã được Hợp Lưu thực hiện...
23 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 84130)
B ắt chước nhà văn Song Thao, tôi dùng vỏn vẹn chỉ một chữ, làm tựa đề cho cuộc trao đồi này. Nhà văn Song Thao cư ngụ cùng thành phố với tôi, mặc dầu chẳng “cách hai đoạn đường dài”, mặc dù không “cách nhau một dậu mồng tơi”… nhưng gạt bỏ vấn đề địa hình nhiêu khê nọ, chúng tôi luôn gần kề trong gang tấc, bởi giản dị, chúng tôi cùng táy máy “vọc chữ” dưới ngôi nhà chung: Văn chương. Lần chuyện trò này, hình thành do hai điều: Thứ nhất, những người bạn phương xa của tôi vẫn thường dọ hỏi: Song Thao là ai? Thứ hai, cách đây mấy hôm, nhà văn chung “phường khóm” với tôi đã vừa in xong cuốn Phiếm số 9. Để câu chuyện đi gần với tinh thần “vui thôi mà” của cố thi sĩ Bùi Giáng, tôi tránh hỏi tới những vấn đề nặng nề, nghiêm trọng của tình hình đất nước. Hy vọng những người từng tủm tỉm cười khi đọc Phiếm, sẽ hay biết đôi điều về tác giả, vốn kín tiếng nhưng rất sung (hiểu ở nghĩa viết mạnh). Hồ Đình Nghiêm
19 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 89957)
. . Với tôi, thơ không rao truyền một ngôn ngữ nào to tát: thơ chỉ là tâm sự, là “một chút riêng tư”trao gởi người thân, bạn bè, những kẻ đồng hành biết, và sẽ quen.” . . .
24 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 86556)
H ồ Đình Nghiêm, sinh ở Huế. Làm thuyền nhân trôi giạt qua Hồng-kông năm 1979. Định cư ở Montréal từ 1980. Viết lai rai cho hầu hết các tạp chí xuất bản tại hải ngoại, cộng tác với Hợp Lưu ngày từ số ra mắt. Đã in bốn tập truyện ngắn...Chưa hề trở lại cố quận đìu hiu.