- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Ly Hoàng Ly Và Bóng Đêm

26 Tháng Mười 200812:00 SA(Xem: 20684)

 Ẩn dưới cái tên ngây thơ Lô Lô là tập thơ dầy đặc bóng đêm của người con gái gốc Bắc Ninh sinh năm 1975 tại Hà Nội. Cha làm thơ. Mẹ tảo tần nuôi con những ngày người cha lâm nạn chữ. Bắc Ninh và đêm cũng là địa chỉ Hoàng Cầm thời Về Kinh Bắc, nhưng khi ấy Lô Lô chưa ra đời, nên Lô Lô nào biết Hoàng Cầm là ai, nào biết người cha vì “liên hệ” với Kinh Bắc mà đã đánh mất mùi mình (1) trong sàn đá, để suốt đời mang mặc cảm thạch sùng (2).

Những điều trên đây dường như không liên hệ, không còn liên hệ gì đến lớp trẻ sinh sau 75, đặc biệt những người con gái vô tư cười như mùa thu tỏa nắng (3). Vậy mà có. Lại có rất nhiều. Những sợi dây, những vết trói, những oan nghiệt, những sự tình trong quá khứ, thế hệ sau không tham dự, không biết: Lô Lô sinh ra chiến tranh đã hết, Lô Lô được nuôi bằng sữa hoà bình. Vậy mà chất độc da cam của bạo lực và áp bức vẫn chi phối hầu như toàn bộ vô thức sáng tạo của Ly Hoàng Ly. Chúng trộn vào đêm, vào những đêm trắng, đêm xuyên ngày của Ly, chúng len lỏi trong những bức chân dung phụ nữ bị trói gô, bị kẹp, cắt, qua những bức sắp đặt (installation), trong tranh trừu tượng, trong nghệ thuật trình diễn (performance) của Ly Hoàng Ly.

Hìnhthơ đi đôi trong tập Lô Lô: một thế giới trống mở ra biển vắng.

Trang 21, bức sắp đặt với những khung cửa lệch lạc, cánh bung tan, chôn xuống cát, như có bàn tay vô hình đã phá tung cửa. Để làm gì? Đi đâu? Ra biển chăng? Chắc thế. Bởi chỉ biển, chỉ còn biển trước mặt. Và con người phải ra biển, con người đành ra biển, con người bèn ra biển, con người bị chìm xuống biển, mất hút: mọi sự đoán, đọc, hiểu, đều khả thể trước bức hình này: một trong những bức sắp đặt đầu tiên của Ly Hoàng Ly.

Trang 55: một người ngồi xổm trên thánh giá, băng bó cùng mình, bao nhiêu kẹp phơi quần áo găm khắp châu thân, nàng là một:

người phụ nữ tự trói mình.

Trong tư thế trói gô

Người phụ nữ không tìm thấy xác mình

Chỉ thấy rêu xanh lét chân tường

Chỉ thấy đêm đầm đìa nước mắt...

(Performance photo)

Đó là thế giới của Ly Hoàng Ly: một thế giới phụ nữ tự trói. Con người băng bó. Toàn thể đã bị thiêu rụi từ bên trong. Một thế giới phỏng rộp ở cấp độ nặng nhất. Vài vật dụng tầm thường: một cuốn băng, mấy chiếc kẹp gỗ phơi áo đủ cho Ly tạo ra vũ trụ kinh hoàng: vữa nát thân thể, kìm kẹp tâm hồn.

Người con gái Kinh Bắc có cái nhìn xa, suốt:

Trang 16: Ly ngồi trên ghế, bốn phía vây quanh là dây, dây chăng kín, dây thòng lọng từ trên xuống như chiếc võng dọc, dây bao bọc bốn bề, gợi lại những câu thơ Hoàng Cầm trong Về Kinh Bắc:

thòng lọng tơ gì cuốn gót..

không trói mà không đi...

kià dây muống dại kín em rồi...

Nhưng đâu đã chắc Hoàng Ly nghĩ về Hoàng Cầm hay chỉ là sự tương hợp. Hay đây là những sợi dây có sẵn từ khi Ly chào đời, những sợi dây cuốn tròn hiện tại, những sợi dây bao bọc không gian, sống không còn ngày, ngày đã bị chăng màn, ngày bị dây chằng tứ phiá, ngày đã thôi sáng, ngày đã thành đêm. Đêm Ly.

Lô Lô là những khúc đêm như thế, bắt đầu bằng đêm thứ nhất, mở ra trên bức sắp đặt tuyệt đẹp.

Trang 6: mang tên Khúc đêm. Khúc đêm là một vùng tranh tối tranh sáng, có bức tường ngăn cách không gian bên trong với ánh mặt trời bên ngoài: một bức tường mâm. Những chiếc mâm móc liền với nhau bằng dây xích, có nhiệm vụ thanh lọc và phản hồi ánh sáng, chỉ để lọt một tí vào bên trong. Trên bức tường mâm, lác đác mấy thân thể phụ nữ bị đóng đinh, bị ghim, bị trói, hình như họ đang tập “nhảy vọt”: những thân đàn bà treo lơ lửng như ta treo tranh trong phòng triển lãm. Khúc đêm mời bạn bước vào Đêm của Ly, vùng tranh tối tranh sáng của nghệ thuật và cũng là vùng của những phụ nữ bị treo, bị cắt, bị kẹp, bị kết án “im không nói”, trong một không gian sống rất ít ánh sáng, mọi người ở đây đã chấp nhận im im không nói đi trên phố đông. Im im không nói đi trên phố ồn.

Vùng đêm của Ly Hoàng Ly mang nhiều chất trí tuệ, đầy khủng hoảng, Ly cho trừu tượng trôi vào cụ thể, để cụ thể chuyển sang trừu tượng nhẹ nhàng như cái vẫy tay, như hơi thở nhẹ, như giọt nước mắt:

Kià đêm chảy

Chảy lên trời

Buốt óc tôi

Kià đêm chảy

Chảy lên trời

Máu tuột khỏi tim

(trích Đêm chảy lên trời).

Trong những hình thức khủng hoảng như khủng hoảng chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng xã hội, khủng hoảng chính trị, đáng ngại nhất là khủng hoảng tinh thần. Đêm chảy lên trời, máu tuột khỏi tim là những khủng hoảng đặc dị tâm thần, khiến người đọc giật mình, không hiểu tại sao người con gái có nụ cười “toả nắng” như Ly, lại viết những câu thơ đớn đau, buốt xót đến vậy.

Đêm đem em vào đen

Đen đem em vào đêm

Đêm đem đen vào em

Em đem đêm vào đen”

(trích Ngoặc đơn trong đêm).

Vẫn đêm trong bốn câu thơ viết theo nhịp độc âm này, với ba đồng âm: êm, emen Ly tạo nhịp, tạo dịu dàng âu yếm, tạo vùng tối đặc của các sinh thể đen. Lô Lô mang không khí đêm đen giữa ban ngày, là những cơn ác mộng thường trực của con người bị kết án chung thân sống trong đêm, những con người “muốn đập đêm vỡ tan”; nhưng đêm như ung thư, đêm như bạch tuộc đã chạy cùng khắp cơ thể, và người con gái ấy:

“Soi vào gương

Bất lực và khóc

Trong vô vàn những giọt nước mắt

Một giọt đêm ứa ra từ bầu ngực trắng”

(Mở nút đêm).

Nàng không chặn nổi đêm, bởi đêm đã len vào khắp các ngõ ngách sống, vào toàn bộ mạch máu của thân thể, buốt rát, xót xa:

 

“Đêm đã nhuốm màu lên làn da em

Lên đôi mắt vòng vòng một quầng đêm

 

Đêm đã nhuốm màu lên đôi bàn tay em

Để em không thể nhìn thấy anh

Bằng xúc giác

 

Đêm đã nhuốm màu lên chiếc lưỡi của em

Để em không thể nhìn thấy anh

Bằng vị giác

 

Đêm đã tràn vào từng sợi thủy tinh của chiếc đền vàng

Và khe khẽ hát

Để em không thể nhìn thấy anh

Bằng thính giác”

(Đêm và anh)

 

Đêm của Ly choán dần không gian, độc chiếm bàu trời, đêm là chất lỏng, đêm đặc thịt da. Nhưng trong những vùng đêm, vùng đen ấy, người con gái vẫn tìm cách thở, nàng thấy dưỡng khí trong một vùng mộng tuyệt vời:

Vườn co vào lá

Hoa ôm đêm đến rũ xác

Em đi nhặt xác hoa

Bước vào vùng trăng

Toàn thân lấp lánh dịu dàng

Cả một ước mơ gửi vào vườn đêm

Cây hoàng lan chìa cánh mềm

Buốt ánh mắt em

Hương hoàng lan xanh óng dưới trăng

Buốt hơi thở em

Vườn co vào lá

Đợi đêm lên tới ngọn

Lên tới ngọn của đêm

Lấy xác hoa

Xoa vào trăng

Trên ngọn đêm.

(Đêm trong vườn)

Đêm trong vườn mang dư âm một bản nhạc Dương Thiệu Tước: “Vườn khuya trăng chiếu hoa đứng im...”, nhưng không chắc gì Hoàng Ly đã chịu ảnh hưởng nhạc Thiệu Tước và thơ Hoàng Cầm; bởi thế hệ Ly không còn nghe nhạc Dương và không chắc có đọc thơ Hoàng. Bài thơ của Ly có những chìa khoá khác, mở vào những thầm kín khác, nằm ở hai chữ cobuốt.

Vườn co vào lá.

Buốt hơi thở em.

Buốt ánh mắt em.

Vườn co vào lá là một thực tại ảo, chỉ có trong tâm thức nhà thơ, nhưng tại sao: vườn lại co vào? co vì sợ, co vì lạnh? mà co vào đâu? co vào lá, tức là co vào chính các tế bào sống của mình. Vườn co vào lá, tựa như Ly co vào máu của Ly, như Ly co và tim Ly, như Ly co vào hơi thở Ly, một sự co vào rất tế nhị, rất nhục cảm, rất thể xác, rất đớn đau, rất hãi hùng, mà nhẹ như không.

Rồi lại không biết có phải cảm giác co ấy dẫn đến cảm giác buốt hay là vì buốt hơi thở em, buốt ánh mắt em mà em co lại? Vẫn rất sensuel, vẫn đầy nhục cảm, lần này bởi những chữ hơi thởánh mắt. Thường thì hơi thở và ánh mắt là những nơi phát tiết nhục cảm, là chủ thể của nhục cảm, nhưng ở đây chúng bị chữ buốt chi phối, tức là chúng bị truất quyền làm chủ, và khi một thực thể bị truất quyền như thế bao giờ cũng gây thương tích, gây tác dụng mạnh, làm cho một chữ buốt trở thành trăm nghìn lần buốt. Cho nên trong buốt hơi thở em, buốt ánh mắt em, “hơi thở” và “ánh mắt” đã đưa độ buốt của thân thể lên đến mức hãi hùng, làm cho thân thể phải co lại, co vào lục phủ ngũ tạng của chính mình.

Sau này, người ta có thể quên những bài thơ khác của Ly, nhưng những câu thơ hay như thế sẽ tồn tại. Một đời thơ thường rồi sẽ chỉ giữ lại được vài câu thơ hay, vì thế thơ hay không cần nhiều.

Một bài khác, bài Cắt, trong bài này, Ly mới chỉ thành công một nửa, bởi ý thì rất hay, nhưng chữ chưa thuần thục:

Cắt đêm ra từng mảnh nhỏ

Rồi khâu đêm lại bằng tóc

Tóc thưa dần thưa dần

Những đường rãnh trắng hếu đưa ta đi hết đêm này đến đêm khác

Cho đến khi đầu trọc

Cắt ta ra từng mảnh nhỏ

Rồi khâu ta bằng hết đêm này đến đêm khác

Cho đến khi trắng hếu đêm.

Nhược điểm của bài thơ cũng là nhược điểm chung của một số nhà thơ muốn làm cho thơ rõ nghiã. Không cần. Những liên từ như rồi, ra, cho, đến, trừ trường hợp đặc biệt, không cần thiết cho thơ. Chúng rườm. Chúng làm cho thơ bị ràng buộc. Bị rõ. Bị lộ. Mà thơ càng kín đáo, càng đạt sự độc lập lớn, càng hay: Lê Đạt có kinh nghiệm sâu xa về điều này. Thơ Đường muôn thủa là một trong những đỉnh cao của thi ca nhân loại, bởi mỗi chữ trong thơ Đường đã đạt tới độ độc lập gần như tuyệt đối. Khi dịch thơ Đường sang tiếng Việt, người ta thường thêm giới từ, liên từ, để làm thành một câu thơ dễ hiểu, biến câu thơ mông lung nhiều nghiã trở thành câu thơ giản đơn một nghĩa. Biến cái đa nghiã thành độc ý.

 Trở lại với bài Cắt của Ly, hai câu đầu: Cắt đêm ra từng mảnh nhỏ/ Rồi khâu đêm lại bằng tóc. Thử bớt đi những chữ: ra, nhỏ, rồi, lại, câu thơ sẽ bớt rườm hơn và đa nghiã hơn: Cắt đêm từng mảnh/ Khâu đêm bằng tóc.

Ý tưởng “cắt đêm từng mảnh”, lấy từng sợi tóc khâu đêm cho đến trọc đầu trong bài thơ là những ý táo bạo, độc đáo về sự hoảng loạn đến độ điên dại của con người. Kawabata kể chuyện một ông già, tóc bắt đầu bạc, có sợi nào bạc nhú ra là ông nhổ tiệt, nhổ đến trọc đầu. Tóc mới mọc bèn chịu thua: đổi trắng thành đen, nhưng đã muộn quá, người ta đã đưa ông cụ vào viện tâm thần.

 Tình thế “trốn già” của ông lão thật xúc động. Nhưng ở một nhà thơ trẻ như Ly Hoàng Ly, sự cắt đêmlấy tóc vá đêm lại cho đến trọc đầu, có cái gì bi đát hơn, bởi nó quá mới, quá trẻ, bởi nó không từ tuổi tác, mà từ những nhận thức đớn đau về hiện thực xung quanh, về những khủng hoảng chồng chất đã qua, của một Hoàng Cầm hoảng loạn, của một Hoàng Hưng mất ngủ, của một ai kia không biết... Chính cái kinh nghiệm buốt xót về sự khủng hoảng tâm thần của người lớn đã lây sang tuổi thơ, dồn ép trong tâm thức cô bé Kinh Bắc, trốn vào tiềm thức, lớn dần thành thơ, chín dần trong ba mươi năm cho đến khi Lô Lô ra đời.

 Người đàn bà và căn nhà cổ, là bài thơ viết theo nhịp hiện thực huyền ảo, cũng là tự truyện của một bé gái từ lúc còn là bào thai nằm trong bụng mẹ: người mẹ quyết vượt đêm, quyết sống còn trên những gián giun, vi khuẩn, để con mình được chào đời, mong nó sẽ rửa sạch không gian bụi bặm, nhiễm trùng đã tiêu diệt mình.

 

Người đàn bà mặc áo dài trắng ngồi bắt chéo chân

Trên chiếc ghế bọc nhung lành lặn duy nhất (...)

 

Tường ố mưa đêm bao năm

Màu vàng lên rêu mốc

Mưa điên cuồng bên ngoài

Đòi trút vào nhà cổ những u uất

 

Người đàn bà mặc áo dài trắng ngồi bắt chéo chân

Buồn thảm và kiên định

 

Những con vi khuẩn bám trên từng hạt bụi

Nghe ngóng sự sinh sôi ẩm mốc

Dưới gầm chiếc phản lên nước như gưong soi

Là đêm của thế kỷ trước

Dưới gầm chiếc phản lên nước như gương soi

Lũ gián khua râu hà hít.

 

Người đàn bà mặc áo dài trắng ngồi bắt chéo chân

 Giữ đứa con trong bụng tư thế ung dung và thách thức

 Những con gián túa ra từ gầm phản

 Bắt đầu gặm nhấm chiếc ghế lành lặn

 

 Người đàn bà mặc áo dài trắng ngồi bắt chéo chân

Hút cạn mắt một đêm

Từ từ rã xác

Hút cạn mắt nghìn mưa

Nhà cổ ngập tiếng khóc

 

Oe Oe Oe

 Nhà cổ rùng mình thức giấc

 Lũ gián bò toán loạn trên chiếc áo dài rũ trắng sàn gạch

 

Đứa bé gái mặc áo dài trắng nhẹ nhàng tụt xuống từ chiếc ghế bọc nhung duy nhất lành lặn

Mắt tròn trong vắt

Đi một vòng ngơ ngác

Sờ tay lên lò sưởi và cửa sổ và tường và mọi thứ ẩm mốc

Thấy tay đầy vi khuẩn

 

Bàn tay màu xám ngắt

Vặn núm cửa bước ra đêm mưa bão bùng

 

Cánh cửa dày đặc văn tự cổ sập lại sau lưng

Khi ấy đêm vụt tắt

Những hạt nắng như mưa rơi rơi không dứt

Rửa sạch bàn tay bụi bặm.

(Người đàn bà và căn nhà cổ)

 

Bài thơ có cấu trúc đoản, mỗi khúc nối nhau bằng hình người đàn bà mặc áo dài trắng ngồi bắt chéo chân trong ẩm mốc, căn nhà cổ có tự bao giờ? Nàng không nhúc nhích, nàng bị vây kín, bị tấn công, mọi mặt, quá khứ u uất, hiện tại vi khuẩn, nàng ngồi bắt chéo chân kiên trì chống trả trong yên lặng cho đến hơi thở cuối cùng. Nàng, người mẹ ấy đã nát thân, tan xác cho gián gậm, quyết bảo toàn đứa con trong bụng, đẩy bọn dán giun không đục khoét được bào thai. Nàng hy sinh cho con chào đời: một đứa bé gái. Người đàn bà hút cạn mắt một đêm từ từ rã xác, hút cạn mắt nghìn mưa, những hình ảnh ghê gớm, phả đến từ một thế giới khác để đối chất với một hình ảnh cực kỳ trong sáng “đứa bé gái mắt tròn trong vắt” của hôm nay.

 

Gia tài của mẹ để lại cho con, trong thơ Ly Hoàng Ly, không phải là một nước Việt buồn, như trong thơ Trịnh, mà còn đớn đau chua xót hơn: đó là cơn ác mộng triền miên, là bóng đêm dày đặc, là căn nhà cổ đầy vi khuẩn, là núi văn tự ẩm mốc, là không gian bão tố. Sáng trưa chiều tối là đêm.

Một mình, người con gái Kinh Bắc ấy, làm sao có thể biến đêm thành ngày?

 

 

Chú thích:

 (1) và (2) thơ Hoàng Hưng

(3) thơ Hoàng Cầm

Thụy Khuê
Paris, tháng 2/2006

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Giêng 20171:19 SA(Xem: 30097)
Khoảng ba trăm triệu năm trước, Tây Tạng còn nằm dưới đáy biển Tethys nguyên là một đại dương mênh mông bao trùm cả diện tích Châu Á và Ấn Độ. Do hành trình va chạm dữ dội của hai khối tiền lục địa Gondwanaland và Laurasia tạo nên cơn địa chấn với sức ép khổng lồ từ khối đất Ấn Độ dồn lên phía bắc tạo thành dãy Hy Mã Lạp Sơn và Cao nguyên Tây Tạng. Với lịch sử địa chất ấy, Tây Tạng là vùng đất cao từ 3500 tới 5000 m – được mệnh danh là "xứ tuyết", “nóc của trái đất”, hay "Cực Thứ Ba / Third Pole" -- hai cực kia là Bắc Cực và Nam Cực.
02 Tháng Giêng 201711:18 CH(Xem: 28525)
Tanaka Aki, tên cô gái Nhật Bản, Aki có nghĩa là "Mùa Thu", cô đã không có may mắn được gặp nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng mà cô rất ngưỡng mộ nhất là sau này khi được đọc tác phẩm Người Đi Trên Mây, Sa Mạc, Bụi và Rác. Aki đã bị cuốn hút ngay với tác phẩm Người Đi Trên Mây vì mối quan tâm của cô về môi trường, hoàn cảnh sinh hoạt của Sài Gòn trước 1975. Aki đã từng sống và làm việc ở Việt Nam hơn 13 năm nhưng là thời kỳ sau 1975. Và cô có ý muốn dịch Người Đi Trên Mây sang tiếng Nhật nhằm chia sẻ một tác phẩm hay với độc giả người Nhật.
11 Tháng Mười Hai 201612:35 CH(Xem: 28017)
"Có lẽ một ngày nào đó Việt Nam sẽ tự do và tôi có thể trở về. Tôi đang hạnh phúc ở đây nhưng nội tâm thì rất buồn bã. Buồn cho dân tộc tôi. Tôi không biết liệu chúng tôi có còn một tương lai. Xa rời quê hương, thật khó mà duy trì truyền thống của chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy như bị đánh mất phần hồn." Đã 36 năm kể từ ngày Mai Thảo trả lời cuộc phỏng vấn của Jane Katz 7.10.1980, hai năm sau ngày anh đặt chân tới Mỹ và cũng đã 18 năm kể từ ngày anh mất: Việt Nam vẫn chưa có tự do và thân xác anh thì nay đã vùi nông trên một lục địa mới rất xa với một nơi được gọi là quê nhà. NGÔ THẾ VINH
17 Tháng Mười Một 201610:47 CH(Xem: 34021)
LTS. Nhà văn Cao Xuân Huy mất ngày 12 tháng 11 năm 2010; vậy mà cũng đã 6 năm rồi. Sau đây là bài viết kết hợp của Ngô Thế Vinh, Nguyễn Xuân Hoàng, Trịnh Y Thư để tưởng niệm tác giả Tháng Ba Gãy Súng, nhân ngày giỗ thứ 6 của Anh.
31 Tháng Mười 20163:02 SA(Xem: 26809)
Một bài học lịch sử từ cổ đại: Các siêu cường thường suy tàn vì chia rẽ, tranh chấp nội bộ. Liệu Liên Bang Mỹ có suy nghiệm về điều này để tự vượt thắng hay chăng? Siêu cường Mỹ có những khó khăn và rạn nứt; nhưng cũng dư thừa khả năng điều chỉnh, thắng vượt và hàn gắn. Tôn giáo đích thực của đại đa số dân Mỹ trầm lặng là hy vọng và tương lai.
11 Tháng Mười 20161:41 SA(Xem: 27749)
Isaan là một vùng châu thổ rộng lớn trên cao nguyên Khorat trong lưu vực Sông Mekong, bao gồm 20 tỉnh đông bắc Thái Lan, chiếm đến 1/3 toàn diện tích 514,000 km2 của Thái với hơn 20 triệu dân cũng chiếm khoảng 1/3 dân số Thái nhưng vẫn còn là một vùng nghèo và khô hạn, cho dù được bao quanh bởi con sông Mekong như một biên giới thiên nhiên giữa Thái - Lào. Do sự toa rập giữa thực dân Pháp và Anh, họ đã cắt một phần đất Lào sát nhập vào Thái từ 1941, do đó cư dân Isaan đa số là người Lào còn được gọi là Thay Isaan, nói cùng ngôn ngữ, chủ yếu sống bằng nghề nông, tơ lụa và chài lưới. Còn phải kể tới một số không ít người Việt sinh sống lâu năm tại đây.
31 Tháng Tám 201612:04 SA(Xem: 30098)
Như Phong Lê Văn Tiến, không rõ ngày sinh thật nhưng trên căn cước ghi sinh ngày 1 tháng 2 năm 1923 tại Bắc Việt. Tên thật ít ai biết là Nguyễn Tân Tiến, sau do nhu cầu hoạt động cách mạng, đổi tên là Lê Văn Tiến. Từ 1945, Như Phong làm tuần báo Ngày Nay Bộ Mới ở Hà Nội, sau đó làm biên tập cho sở Thông Tin Bắc Việt. Năm 1954, di cư vào Nam, ban đầu làm cho Việt Tấn Xã, sau đó từ 1955 sang làm nhật báo Tự Do xuyên suốt cả hai thời kỳ cho tới 1963 khi Tự Do bị đóng cửa. Ngoài báo chí Việt ngữ, Như Phong còn là cộng tác viên của The China Quarterly, London (1964-1972); các bài viết của ông về giới Trí Thức Miền Bắc, về Phong trào Nhân văn Giai phẩm đã tạo nên tên tuổi ông trên diễn đàn báo chí quốc tế.
26 Tháng Bảy 20163:49 SA(Xem: 29813)
Viraphonp Viravong, Thứ Trưởng Bộ Năng Lượng và Hầm Mỏ Lào, khuôn mặt “trí tuệ” đứng sau mọi dự án phát triển thủy điện của quốc gia Lào. Ngày 15-10-2012 khi tới Viện Kỹ Thuật Á châu / AIT, Bangkok để duyệt xét mô hình dự án thủy điện Xayaburi, Viravong khẳng định: “Phát triển tiềm năng thủy điện của Lào là chuyện đương nhiên. Chỉ có vấn đề làm sao để thực hiện bền vững.”
01 Tháng Bảy 201612:54 CH(Xem: 32406)
Tên thật Nguyễn Phước Bửu Khải, sinh ngày 01.09.1940 tại Huế. Nguyên Khai theo học hai năm đầu tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế (1960-1961), chuyển vào học năm thứ ba và thứ tư trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định (1962-1963). Huy chương Đồng Triển lãm Mùa Xuân Saigon 1963, cũng là năm Nguyên Khai tốt nghiệp tại trường này. Là một trong những thành viên sáng lập và là khuôn mặt nổi bật của Hội Hoạ sĩ Trẻ Việt Nam từ 1966.
09 Tháng Sáu 20169:33 CH(Xem: 27275)
Cùng tồn tại là điều mà nhiều nhà hoạt động hôm nay đang vô cùng lo lắng, nhất là khi mỗi ngày phải nhìn thấy hình ảnh xác cá chết trắng dọc theo bờ biển từ Hà Tĩnh đến Huế. Xác cá hay xác của dân mình trên một mảnh đất đã khô kiệt từ tài nguyên đến linh hồn con người!