- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

“MÊ THẢO” CHỐNG LẠI “THỜI VANG BÓNG”

12 Tháng Chín 20218:12 CH(Xem: 9932)
MeThao
Diễn viên Minh Trang (vai Cam) trong phim Mê Thảo-Thời vang Bóng

 

 

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

“MÊ THẢO” CHỐNG LẠI “THỜI VANG BÓNG”

(Xem phim “Mê thảo - thời vang bóng” của đạo diễn Việt Linh)

 

Một cái tên phim lạ khá hấp dẫn, lại được làm theo truyện của một tác giả văn học đại thụ, được tuyên truyền quảng cáo nhiều từ vài năm nay, lại của một đạo diễn nữ đã từng gặt hái thành công ở một vài liên hoan phim trong nước và quốc tế… Đó là những điều đã dẫn tôi đến rạp mua vé xem bộ phim: “Mê Thảo – Thời vang bóng”.

 

Trong cái không khí có nhiều phim “cúng cụ” ra đời để phục vụ kịp thời những ngày lễ kỷ niệm rồi sau đó vội vã nhét vào kho và những cuộc cãi lộn trên báo chí nổ ra ( để nhằm khẳng định phim mình hay, và cũng là một cách để quảng cáo cho bộ phim đã bị công luận “khai tử”), phải, trong cái bối cảnh đó tôi đi xem “Mê Thảo” với một tâm lý dễ chịu hẳn. Bộ phim được làm chỉn chu, kỹ lưỡng, không có những hạt sạn đáng tiếc khiến khán giả suýt “gãy răng” như không ít phim điện ảnh và truyền hình của ta hay mắc phải. Âm thanh nổi, ánh sáng đẹp, khuôn hình gọt tỉa, bối cảnh phục trang hợp lý, âm nhạc sử dụng đắt, diễn viên có nghề, v.v. Có thể nói đây là một bộ phim truyện nhựa xứng với “đồng tiền bát gạo” bỏ ra.

 

Nhưng, nhiều khán giả (có người đã phát ngôn trên báo chí) - trong đó có tôi, khi xem bộ phim lại không thấy xúc động. Tôi cũng ngạc nhiên và tự hỏi: có phải mình đã chai lỳ cảm xúc? Hay là vì trong khi xem, mình cố tìm xem những chỗ nào trùng khớp hay không trùng khớp với nguyên tác của nhà văn Nguyễn Tuân? Hay là phim làm theo kiểu hiện đại quá, không phù hợp với khả năng thưởng thức của mình?

 

Để có thể tự trả lời được một cách thật khách quan những câu hỏi rắc rối tơ vò trên, tôi đã đọc lại toàn bộ tác phẩm “Chùa Đàn”, rồi mua vé xem lại “Mê Thảo” lần nữa, cùng với đôi ba người bạn ưa tranh cãi.

 

Thế rồi, một câu hỏi mới đã chợt bật ra với tôi: bộ phim được làm ra để làm gì, nhằm tới cái đích gì trong tâm tưởng người xem?

 

Cơ sở nội dung để các nhà làm phim sử dụng cho “Mê Thảo” là chương II, cốt lõi truyện “Chùa Đàn” (Trong “Vang bóng một thời”): “Tâm sự của nước độc” được viết trong năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Tuân lại viết thêm phần I và phần III cho tác phẩm để lý giải thêm, đúng hơn là “chiêu tuyết” về mặt tư tưởng cho nội dung thiên truyện; và việc làm đó đã được một giáo sư chuyên gia hàng đầu về tác giả Nguyễn Tuân nhận xét: “đó là lời lý thuyết ồn ào” (1) Chính nhà văn Nguyễn Tuân trong một bài viết nhìn lại sáng tác của mình trước cách mạng đã khẳng khái tự thừa nhận: “Chùa Đàn nguyên là một truyện thần bí quái dị, rút ở tập “Yêu ngôn” phản khoa học, phản tiến bộ. Chuyện ấy là chuyện một địa chủ điên loạn trong hưởng lạc, muốn sống một cách dâm bạo, như cái kiểu của Musset: “máu, khoái cảm, và chết”… Sáng tác vô chính trị “Chùa Đàn” là một tội lớn đối với Cách mạng Tháng Tám”(2). Nếu bác Nguyễn có sống lại, thì bên cạnh dũng khí của nhân cách lớn đó sẽ có thêm sự kính nể, bác sẽ lại vái dài những người làm phim và Hội đồng duyệt phim Quốc gia vì đã dám phạm vào “vùng cấm” mà cho đến ngay lúc này, cái bệnh “cầm đèn chạy trước ô tô”, “bảo hoàng hơn vua”, “cái gì cũng sợ” còn nặng nề lắm trong tâm lý những người “cầm cân nảy mực” ở cái lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm và đặc biệt quần chúng là Điện ảnh! Ô hay, thế ra cái việc duyệt phim ở ta giờ cũng thoáng thật! Nhưng thôi, ta hãy quay về phim, quay trở về với lòng dũng cảm quyết “liều chiến” của nữ đạo diễn Việt Linh. Và ta thử xem chị đã làm thế nào để biến “nước độc” thành “nước lành”, để chị có thể đem phim đi nước này nước nọ trình chiếu như một thứ “căn cước tài năng và lòng yêu dân tộc” của mình.

 

Tôi nghĩ, việc đầu tiên, tốt hơn cả là hãy bám lấy nhân vật chính – địa chủ ấp Mê Thảo họ Nguyễn. Trong phim, trừ đoạn đầu ở thành phố đi nghe hát và tình cờ chứng kiến một cuộc ngộ sát, ông chủ Nguyễn từ đó cho đến hết phim đã hiện ra như một hình nhân thế mạng cho một ai đó, biểu tượng cho sự khùng điên, man rợ, độc đoán; ở ông ta chất chứa những ẩn ức mà nổi bật là ẩn ức sinh lý không được giải tỏa… Tất cả những điều đó được lý giải bởi một tình huống duy nhất: người vợ yêu sắp cưới bị tai nạn đổ ô tô - bằng chính cái ô tô quà cưới của ông ta dành cho vợ yêu! Từ đó, ông ta căm ghét văn minh cơ khí, nghĩa là tất cả những gì liên quan đến tiện nghi hiện đại. Những hành động của ông ta (buộc mọi người trong ấp phải thiêu hủy đồ dùng sản phẩm công nghiệp, việc đặt lệ: người vào ấp phải bỏ lại tư trang thành thị ngoài trạm gác, v.v), nếu ở trong truyện, chúng được phủ lên bằng một không khí âm u ma quái đượm màu sắc “Liêu trai” - thì ở phim, chúng lại được miêu tả một cách cụ thể đến trần trụi, thậm chí cả việc ông ta “làm tình” thực sự với bức tượng gỗ! (chi tiết này không có trong truyện). Tất cả những cái đó nhằm minh họa cho tính cách (hay tình trạng nhân cách) của ông ta: nửa người nửa ma quái, nửa phần cõi dương nửa phần cõi âm, và chúng hoàn toàn không đủ thuyết phục rằng ông ta có thể lại phục hồi được lương tri nhờ nghe tiếng hát của cô đào Tơ ở cuối phim!

 

Nếu tỉnh táo đọc lại những trang “Chùa Đàn” hôm nay, với cái nhìn độ lượng của thời gian, chúng ta càng dễ nhận ra: ở đằng sau sự sa đọa, lỗi thời, thần bí, điên loạn của một thời đại mà người nghệ sĩ dù có cá tính sáng tạo mạnh đến mấy cũng khó lòng vượt qua được, vẫn có một cái gì đó le lói mang giá trị nhân bản đích thực. Ngay trong văn bản “Tâm sự của nước độc” mà “Mê Thảo” dựa vào cũng còn có nhiều tình tiết uẩn khúc mà người làm phim bỏ qua hay không tiếp cận nổi! Trong phần III của “Chùa Đàn” là “Mưỡu cuối”, Nguyễn Tuân viết: “Lịnh (trong phim là ông chủ ấp họ Nguyễn – người viết chú thích) chỉ đổi đi cái đối tượng mê mải - người Lịnh lúc nào cũng chứa nỗi say đắm một cái gì - và hướng dục vọng mình vào một phía mới nào nó rộng rãi và đúng nghĩa hơn. Lịnh vẫn là một người say đắm cái đẹp…”(3) Dù phần III này chỉ là một sự “vá víu” khiến GS. Nguyễn Đăng Mạnh thốt lên: “Nguyễn Tuân sao mà nông nổi đến vậy!”(4) thì chúng ta vẫn thấy ở đằng sau cái “nông nổi” ấy là một nhân cách nghệ sĩ đáng trọng, không thể và không dám dìm chết nhân vật mình yêu quý trong vũng bùn sa đọa vĩnh viễn!

 

Còn trong phim thì sao? Tôi đã dần hiểu ra những mắc mớ của mình. Phải, như vậy rõ ràng là người xem phim khao khát muốn được tìm thấy ở đằng sau những vẻ điên dại, hành động ngược đời (và trái với cả nhân tính kia) một cái gì đó thổn thức của lương tri, của một trái tim “say cái Đẹp”, nỗi thèm muốn thoát khỏi sự tù túng chật hẹp và những nỗi bất công chẳng nhỏ chút nào do chính anh ta tạo ra cho đồng loại ấp Mê Thảo khiến anh ta từng phải xót xa ân hận… Nhưng không, khán giả không hề tìm thấy một chút bóng dáng nào của những thứ kể trên khiến nhân vật chính có thể có được một vẻ đáng yêu nhất định, một sự cảm thông đượm thế thái nhân tình nơi người xem. Cảm giác bao trùm đối với nhân vật ấy kể từ cuốn phim thứ hai trở đi cho đến hết tám cuốn sau là một sự ghê rợn, kinh sợ. Người xem buộc phải trở lại câu hỏi day dứt: vậy bộ phim được làm ra để làm gì? Cả một bộ phim tốn kém dài hơn trăm phút không lẽ chỉ nhằm đưa ra một lời khuyến cáo đơn giản sau cùng và cũng đầy khiên cưỡng: “mọi sự mê muội đều phải trả giá”? Phải chăng, ngoài những ấn tượng phản thẩm mỹ và phản đạo lý kia ra, bộ phim chỉ cần đạt được sự giới thiệu dân tộc học về Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX: những phụ nữ mặc váy yếm, những điệu hát ca trù, những chiếc đèn giời, sinh hoạt của giới địa chủ, nghề làm tơ tằm, những cuộc biểu diễn nghệ thuật truyền thống… Xem xong phim, nhiều người cũng có tâm trạng như tôi, thấy thiêu thiếu một cái gì… Hóa ra, cái thiếu đó chính là ngọn lửa ở bên trong tác phẩm, là cái thái độ ngay thẳng bênh vực con người, là cái thông điệp về nhân sinh ngầm sâu mà những người làm phim cần gửi đến người xem qua hàng loạt những hỉ, nộ, ái, ố, những cảnh sắc, những trang phục và diễn xuất… Vâng, rất buồn mà buộc phải nói rằng, những cái đó ở bộ phim này rất lộn xộn, mờ nhạt nếu như không muốn nói là chúng không có. Tiếng hát của cô Tơ cùng tiếng đàn “chảy máu năm đầu ngón tay” của quản Tam dù có rung động lòng người dẫn đến cái chết cứu mạng ân nhân của Tam cũng không giúp gì nhiều cho phim khi phim đã không có cái cột trụ vững chắc là một tư tưởng nghệ thuật sâu sắc.

 

Thật công bằng mà xét thì nhân vật cô câm (tên Cam, với nghĩa cam chịu, nhẫn nhịn) là sáng tạo có ý nghĩa hơn cả của bộ phim. Nếu không có nhân vật này, phim sẽ “nghèo” đi nhiều lắm. Cô câm giống như một “con mắt thứ hai” của khán giả cảm nhận, quan sát, đánh giá nhân vật chính là ông chủ Nguyễn- người mà cô yêu một cách say đắm, nhẫn nại và nô lệ, kể cả khi ông ta đã trở nên dại cuồng mất hết nhân tính! Hành động đáng kể nhất, mang tính chất nổi loạn và bộc lộ rõ tình yêu mù quáng của cô câm là hành động kéo lê cái tượng gỗ to bằng người thật quẳng xuống sông (hình như có hàm nghĩa là cô vứt bỏ thần tượng yêu trộm nhớ thầm của mình!) Và cô đã bị trả giá: ông chủ ấp Mê Thảo hạ lệnh bỏ rọ cô trôi sông để thế mạng! Xem ra, cô là nhân vật có nhiều hy vọng mong được gửi gắm của những người làm phim. Có người viết phê bình bộ phim đã ví cô câm này với hình ảnh những cô gái nghèo trong cổ tích yêu hoàng tử, với cô Thoa trong truyện của Thế Lữ, cô Trâm trong truyện của Nhất Linh, cô Xoan trong truyện của Nguyễn Đình Thi… Tác giả đó quả là yêu quý nữ đạo diễn mà quá lời. Xin hãy bình tĩnh để suy xét. Nếu như Nguyễn Tuân mượn tiếng đàn của nhân vật giải tỏa nơi con người “cái tâm tức sinh lý của một sự giao hoan lưng chừng”(5) bằng chữ nghĩa và sự tưởng tượng nơi người đọc thì trong phim, các tác giả đã làm công việc hiện hình cái “tâm tức sinh lý” ấy một cách trần trụi, nó lại được ánh sáng trau chuốt, ống kính cận cảnh vào đặc tả kèm tiếng động chân thực ( thông qua cái nhìn của cô câm) làm tôn lên nhiều lần cái cảm giác thú vật từ nhân vật hòng lây lan sang khán giả. Nếu có ai dám nói đó là thành công thì nên hiểu rằng đó là một điển hình thành công của một cuộc “thủ dâm” bằng điện ảnh!

 

Còn có thể nói thêm nữa về phim qua những nhân vật khác: cô Tơ, anh quản Tam, ông bõ… Nhưng như vậy cũng đủ để cho tôi tự giải đáp cái băn khoăn của mình: vì sao phim không làm tôi xúc động, ngược lại, còn gây phản cảm? Với một tác giả văn xuôi “phức tạp” như Nguyễn Tuân (chữ dùng của GS. Nguyễn Đăng Mạnh), mà “Chùa Đàn” lại là truyện được chính tác giả xếp vào cùng với những truyện huyền bí, như  “Xác Ngọc Lam”, “Loạn Âm”, “Lửa nến trong tranh”…mà ông đặt tên chung là “Yêu ngôn” phản ánh nỗi hoang mang và kinh loạn của suốt một thời kỳ khủng hoảng; với một tác giả “khó khăn” như vậy, muốn “giải mã” được ông, tinh lọc được những gì là quý giá nhất của tâm hồn, tài hoa của ông để chuyển tải tới đông đảo khán giả bằng phim ảnh thì rõ ràng cần phải có một “thầy ấn” cao tay hơn, có một tầng văn hóa – tư tưởng dày dặn hơn, may ra…

 

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

 

_____________________________________________

(1)  Nguyễn Đăng Mạnh – Nguyễn Tuân tuyển tập, I, tr.40, NXB Văn học Hà Nội 1981.

(2) Nguyễn Tuân toàn tập, tập V, tr. 443-444. NXB Văn học Hà Nội, 2000.

(3) Nguyễn Tuân tuyển tập, I, tr.407, NXB Văn học, HN, 1996.

(4) Nguyễn Đăng Mạnh ( đã dẫn ở 1 )

(5) Nguyễn Tuân tuyển tập, tập I, trang 398.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Mười Hai 202312:10 CH(Xem: 3890)
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối, Tìm Quê hương trên vết máu giữa đồng hoang: Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi, Từng con sông từng huyết lệ lan tràn…
07 Tháng Mười Một 20236:34 SA(Xem: 4657)
“…câu chuyện giáo sĩ Alexandre de Rhodes là câu chuyện cũ đã hơn 300 năm trước. Ông không sáng chế ra chuyện đánh vần tiếng Việt ra mẫu tự Bồ. Tôi nghĩ ông là một giáo sĩ tận tụy với nghiệp vụ truyền giáo, chỉ có điều kiến thức quá giới hạn của ông về văn hóa tôn giáo và con người Việt Nam làm tôi bực mình, và thèm khát một ngày mà những bất cập như vậy không còn sót lại nơi một giáo sĩ dù với đức tin nào. Tuy nhiên, phê phán nặng nề một giáo sĩ 300 năm trước là điều không nên, khi mà các giáo sĩ nói chung bấy giờ một phần vì giới hạn kiến thức, không có truyền thống kính trọng văn hóa địa phương. Nhưng ta tự nguyện tự lãnh một cái ơn tày đình với những giáo sĩ như De Rhodes cũng là chuyện không căn cứ. Có lẽ thỉnh thỏang ta nên đọc lại Phép Giảng Tám Ngày của ông ta để có một viễn cận phải chăng với câu chuyện.” (Mai Kim Ngọc).
01 Tháng Mười Một 202312:55 SA(Xem: 4405)
Hun Sen đã chính thức chuyển quyền cho con từ ngày 22/8/2023. Tuy Hun Manet là Thủ tướng mới nhưng Hun Sen vẫn có một ảnh hưởng gần như tuyệt đối từ phía sau hậu trường. Hun Sen viết trên trang Facebook – “Đây chưa phải là kết thúc. Tôi còn tiếp tục phục vụ ở những cương vị khác ít nhất cũng tới năm 2033” (tức là mười năm nữa, lúc đó Hun Sen 81 tuổi). Tìm hiểu về giới lãnh đạo bao gồm hai thế hệ Cha và Con của chính trường Cam Bốt hiện nay và ít ra trong 10 năm tới thiết nghĩ là điều rất cần thiết.
16 Tháng Mười 20234:16 CH(Xem: 4582)
Dự án “Funan Techo Canal” nhằm phục hồi một hệ thống đường thủy đã được xây dựng và vận hành từ triều đại Đế chế Funan-Khmer [sic] có từ khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Công trình này nhằm cải thiện giao thông đường thủy trong lãnh thổ Cam Bốt. Con kênh này có chiều dài 180 km, kết nối 4 tỉnh: Kandal, Takeo, Kampot, và Kep. Mục đích chính của dự án này như một kết nối lại với lịch sử và nhằm cải thiện giao thông đường thủy cho các cộng đồng cư dân địa phương. Triển khai dự án này phù hợp với cam kết của Cam Bốt theo điều khoản 1 và 2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, với sự bình đẳng về chủ quyền, tôn trọng những quyền hạn và các lợi ích chính đáng.(1) [trích Thông Báo của Cambodia gửi Ủy Ban Thư Ký Sông Mekong]
07 Tháng Mười 202311:06 CH(Xem: 4945)
...Mai Ninh, Trần Vũ, Lê thị Thấm Vân vẫn viết về những vấn đề liên quan đến cuộc chiến đã qua. Trần Diệu Hằng với Vũ điệu của loài công, Mưa đất lạ và Chôm chôm yêu dấu vẫn là những tập truyện ngắn liên quan cuộc sống người tỵ nạn, đến tâm tình từ góc độ một người tỵ nạn. Lê thị Huệ với Bụi Hồng, Kỷ niệm với Mỵ Anh và Rồng rắn vẫn là những soi chiếu vào tâm tình những cảnh đời của nếp sống di dân qua hình ảnh cô sinh viên thuở trước và bây giờ. Nhưng người ta vẫn nhận ra đề tài về tính dục vẫn là nét trổi bật trong các truyện của các nhà văn kể trên (trừ Trần Diệu Hằng). Thứ văn chương với đề tài có xu hướng trổi bật về tính dục đã mở đầu như một thứ cách mạng tình dục trong tiểu thuyết. Trước đây thì cũng có Tuý Hồng, Lệ Hằng, Thụy Vũ... cũng đậm mà chưa đặc, chưa đủ mặn. Ai là người đánh trống, cầm cờ về đề tài này? Có thể là Trần Vũ, Trân Sa hay Kiệt Tấn, Ngô Nguyên Dũng, Hồ Trường An và nhất là Lê thị Thấm Vân. Truyện sẽ không viết, sẽ không đọc, nếu không có trai gái.
12 Tháng Chín 202312:43 SA(Xem: 6447)
Hai câu trên nằm trong bài thơ mang tên “Lễ Phục Sinh 1916” của William Butler Yeats. Bài thơ nhằm tưởng nhớ tới những người đã ngã xuống cho tự do và độc lập của Ireland. Cuộc hành quyết đẫm máu các thủ lĩnh cách mạng sau cuộc trỗi dậy vào ngày lễ phục sinh đã đánh thức cả một thế hệ Ireland. Cuối cùng, nhân dân Ireland cũng dành được độc lập vào năm 1949 và bài thơ của Yeats được cho là một trong những bài thơ chính trị hay nhất của thế kỷ 20 trong lịch sử văn học nước Anh.
04 Tháng Chín 20238:30 CH(Xem: 5904)
Trong ngót hai chục phim truyện điện ảnh tham dự tranh Giải Cánh Diều năm nay của Hội Điện ảnh VN, có thể nói “Em & Trịnh” là một tác phẩm hoành tráng bậc nhất. Và cũng cần phải thẳng thắn điều này: những người làm “Em & Trịnh” đã rơi vào cả hai tình huống đặc biệt của Điện ảnh: a. thực hiện một bộ phim chân dung vốn đầy thử thách, b. đặc biệt là phim ca nhạc sẽ cực kỳ khó khăn về các yếu tố kỹ thuật!
10 Tháng Bảy 20231:55 CH(Xem: 6882)
PHỤ NỮ GIỮA CHIẾN TRANH VIỆT NAM: THỜI ĐIỂM 1969 Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình [Visions of War, Dreams of Peace] [1] là nhan đề một tuyển tập thơ của các nhà thơ nữ; nếu là Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, họ đã là những nữ quân nhân như y tá, bác sĩ đã từng chăm sóc các thương bệnh binh; nếu ở những ngành nghề khác, họ đảm trách các dịch vụ không tác chiến như chuyên viên truyền tin, tiếp vận, kiểm soát không lưu, nhân viên Hồng Thập Tự... Nếu là người Việt, họ là những phụ nữ thuộc hai miền Nam hay Bắc, với những trải nghiệm khác nhau, qua những năm tháng chiến tranh. Và như từ bao giờ, cho dù ở đâu, phụ nữ và trẻ em vẫn là thành phần dễ bị tổn thương nhất trong chiến tranh. Trong tập thơ này, có 34 nhà thơ nữ Hoa Kỳ, và sáu nhà thơ nữ Việt Nam: Xuân Quỳnh (My Son’s Childhood), Hương Tràm (The Vietnamese Mother), Hà Phương (To An Phu, From This Distance I Talk To You), Trần Mộng Tú (The Gift In Wartime, Dream of Peace), Minh Đức Hoài Trinh..., Nguyễn Ngọc Xuân...
09 Tháng Sáu 20234:36 CH(Xem: 6254)
T. cận tôi trai Hà Nội, song có dịp được đi & sống ở nhiều vùng đất trở thành thân quen, rồi yêu quý - và một trong những vùng đất đó là Bình Định. Một sinh viên của tôi làm phim tốt nghiệp về “Võ Bình Định”, tôi rất vui, bảo: “Thầy mới chỉ biết đôi chút về Trời văn Bình Định thôi, phim của em giúp thầy và nhiều người hiểu thêm về Đất Võ Bình Định đáng tự hào”… Mấy Hội thảo Khoa học về cụ Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu - người thầy của Đào Tấn vĩ đại, về Tổng đốc Lê Đại Cang, may được ông Tổng BT tạp chí Văn Hiến Nguyễn Thế Khoa chiếu cố mời về cùng với tham luận và làm phim nên càng có dịp thâm nhập sâu hơn vào kho tàng văn hóa Bình Định. Một dạo, có lớp tập huấn về Biến đổi khí hậu do Thái Lan và Diễn đàn “Nhà báo Môi trường” tổ chức tại Quy Nhơn, được mời tham dự và làm phim cho họ, tôi có điều kiện hiểu thêm về giá trị của Môi trường “xứ Nẫu” nói riêng và Biển miền trung Trung bộ nói chung…
24 Tháng Năm 20234:02 CH(Xem: 6525)
Trong số những nhà thơ lớn Việt Nam các thời Cổ - Trung - Cận đại, tình cảm đặc biệt nhất của tôi với tư cách một người làm phim truyện, là dành cho Thi sĩ-Nhà giáo-Thầy thuốc Nguyễn Đình Chiểu. Bởi theo tôi, giá trị lớn nhất, sức hấp dẫn kỳ lạ nhất trong văn chương Nguyễn Đình Chiểu, chính là trái tim thương cảm của ông đối với Dân, đối với những nghĩa sĩ đã xả thân cho Tổ quốc, và đặc biệt với phụ nữ, trẻ em - những nhóm người yếu thế nhất trong xã hội, nạn nhân đầu tiên của chiến tranh, loạn lạc…