- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

KỊCH BẢN TUỒNG "CHỮA BỆNH GHEN" - MỘT TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT TÂM LÝ HIỆN ĐẠI

03 Tháng Sáu 202110:29 CH(Xem: 10269)

QuynhPhu

 

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

 

KỊCH BẢN TUỒNG "CHỮA BỆNH GHEN" -

MỘT TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT TÂM LÝ HIỆN ĐẠI

 

 

Kịch bản tuồng "Liệu đố" (chữa bệnh ghen) có thể nói là một kịch bản văn học khá kỳ lạ. Khoác cái vỏ lụng thụng của những điển tích cổ, thơ Đường, Kinh thi..., nhưng kịch bản được viết ra từ trên một thế kỷ này tận cốt lõi lại là sự sống dân gian Việt, và điều đặc biệt nhất là chứa đựng nhiều yếu tố hiện đại trong nội dung tâm lý cũng như về hình thức biểu hiện. Tôi xin mạn phép được minh chứng điều này bằng chính văn bản vở tuồng "Liệu đố" mà tôi có được trong tay nhờ các nhà nghiên cứu dịch thuật Hán Nôm của Trời Văn Bình Định (“Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu - ông đồ nghệ sĩ” - Nxb Sân khấu, 2011).

 

Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, "Liệu đố thuộc dòng dân dã như các vở Trương Ngáo, Trương Đồ Nhục, Nghêu Sò Ốc Hến, Lưu Bình-Dương Lễ… không cân đai mũ mãng". Nghĩa là, nó không có xuất xứ từ một tích cổ từng ghi trong sử sách nào hết, tức không dính líu tới bất kỳ sự kiện lịch sử hoặc nhân vật có thực nào! Về nội dung, nó đề cập trực diện tới Cái Ghen. Xưa cũng như nay, chứng bệnh khó chữa này rất phổ biến, và thời hiện tại, có lẽ nó càng phát triển gay gắt. Còn trong văn chương nước nhà, cái ghen của một người đàn bà quý tộc khiến Truyện Kiều vốn đã lừng danh về quá nhiều phương diện phải lưu lại cho đời cái biểu tượng đặc sắc "Nhà Ghen Hoạn Thư"!...

 

"Liệu đố" bắt đầu bằng câu chuyện anh cử nhân Châu Anh cùng với vợ là Ngọc Mai bàn tính chuyện đến kinh dự thi Hội. Lúc này, Ngọc Mai đã chứng tỏ tính hay ghen của mình khi nhất quyết không cho chồng đi, vì sợ chồng lúc công thành danh toại (đắc lộ) thì sẽ "Kiếm hầu xinh hầu tốt...chốn thị thành kiếm năm bảy đứa hầu áo đỏ, quần tía...". Nhưng không thể cản nổi bước phong vân, Ngọc Mai đành căn dặn chồng kỹ lưỡng, bắt thề bồi, trao cho chồng vòng ngọc uyên ương làm tín chấp... Châu Anh cùng hề đồng trên đường đến kinh kỳ thì gặp bọn tướng cướp Hắc Sát, Bạch Hoạch dẫn lâu la đón đường cướp của. May nhờ có cha con Thạch Nghị - Kim Liên giỏi võ đánh bọn cướp cứu giúp. Thầy trò Châu Anh chạy vào nhà Thạch Nghị trốn, riêng Châu Anh tình cờ lọt vào buồng ngủ của Kim Liên...Trước đó, Kim Liên nằm chiêm bao thấy một con cọp chạy vào buồng ngủ của mình, giờ đây thấy người lạ trong buồng, nàng sợ quá đánh thức cha dậy nhờ đoán xem điềm lành- dữ. Cha nàng đoán định là điềm lành, con gái sẽ gặp đức ông chồng là trang hào kiệt. Khi hỏi kỹ nguyên do, ông biết được Châu Anh đã đậu cống sĩ khoa Nhâm Dần, cho là "Bà nguyệt đã se duyên", ông bèn đề nghị Châu Anh kết nghĩa Châu Trần với con gái mình, mặc dù Châu Anh nói thật là mình đã có vợ nhà. Kim Liên mới đầu phản đối cuộc hôn nhân mà theo cô là ""đem con đi biếu", nhưng trước "Lời cha nói xót xa", nàng cũng vâng lời. Còn Châu Anh cũng rơi vào cái thế buộc phải ưng thuận, bởi theo lời Thạch Nghị, "Giường con tôi ông đã đặt mình" làm nhơ danh con gái lão... Thế là Châu Anh mặc nhiên có thêm vợ hai, dù miệng nói "Đã phỉ nguyện non sông/ Lại bén duyên cầm sắt", nhưng trong lòng thì lại nhờn nhợt lo sợ sư tử Hà Đông ở quê nhà!

 

Châu Anh từ biệt vợ mới đến kinh kỳ dự Hội thí, được nhạc phụ Thạch Nghị tiễn chân một đoạn dài. Kim Liên đã lục lấy vòng ngọc của chồng để làm kỷ niệm. (Đó là một đạo cụ quan trọng liên quan đến sự phát triển kịch tính về sau).

 

Ngọc Mai ở nhà đang trong tâm trạng nhớ thương, lo lắng cho chồng thì có dì Bảy Nhạn tới chơi, cho biết Châu Anh đã "Mua một hầu tốt tựa tiên sa"... Trong đoạn này, chúng ta thấy tác giả rất khéo léo khi miêu tả sự phát triển và xung đột tâm lý giữa hai nhân vật. Trước hết, ta cần lưu ý cái lối nhẩn nha đưa chuyện của Bảy Nhạn: từ nỗi buồn của mình lân la sang nỗi buồn của Ngọc Mai, đến nhận xét chung về đàn ông ("Được phòng này, khuây phòng nọ/ Ăn miếng cá, nhả miếng cơm") làm cơ sở cho tin "đồn lởn vởn"; từ đó Bảy Nhạn bắt đầu tung hoành trí tưởng tượng thay cho Ngọc Mai về cuộc tình kia, lại có sự phán xét chắc nịch về thứ đàn ông đã coi vợ nhà như "ngựa già trâu mỏi bất dụng". Kết cục là Ngọc Mai nổi điên lên, túm tóc Bảy Nhạn cho một trận. Tâm trạng Ngọc Mai lúc đó được nữ đồng nói hộ: "Bởi tại dì nói lẻo/ Làm cho mệ sợ thầm".

 

Khi sang nhà ông bà Hương mục xin thang thuốc "hạ hỏa", trước lời khuyên "Xin đừng ghen bóng" thì Ngọc Mai đã lại như lửa đổ thêm dầu, nàng đã thốt lên những lời chửi rủa của dân gian đối với người vợ bé của chồng: "Mả mẹ", "Mồ cha"... Với chữ nhẫn của bà Hương mục, người hiểu phận "Thân con gái mười hai bến nước" và hiểu thói thường đàn ông qua chồng mình, và nhất là trước lời khuyên cần bình tĩnh ra tận ngoài đó để "gặng đục lóng trong" rồi hành sự cũng chưa muộn, Ngọc Mai đã nguôi dần. Trước mặt gia đình hàng xóm trí thức, nàng đã trở lại lịch thiệp với những câu chữ bóng bẩy: "Muốn biết tuổi vàng/ Phải nhờ sức đá"... Nhưng khi về tới nhà, nàng đã lộ nguyên hình là một Sư tử cái Hà Đông với tất cả cơn cuồng nộ, gọi đối phương là "con đĩ ngựa" và thề "Quyết không dung mạng nó"! Kịch tính đã được đẩy lên một cao trào mới trong lúc Ngọc Mai hờn giận và bất cần truyền lệnh cho gia đinh trông coi nhà cửa để ra đi tìm chồng, cùng những lời nguyền rủa đối phương thật cay độc; sau đó thì nàng mường tượng ra cảnh chồng mình đang "kề vai dựa vế" cùng vợ mới, tự độc thoại bằng cách than khóc với chồng... Ở đây có hai nấc thúc đẩy tâm trạng ghen với những sắc thái phong phú, bởi sự can thiệp của hai người đàn bà đã tác động sâu sắc tới Ngọc Mai.

 

Xin hãy nhớ lại trường đoạn miêu tả cái ghen của dũng tướng da đen trung thực Ô-ten-lô trong vở kịch cùng tên của U. Sêc-xpia đã được đẩy lên từng bước như thế nào qua những lời đưa đẩy nham hiểm của I-a-gô để dẫn tới án mạng khủng khiếp sau đó, sẽ nhận ra: ông đồ Tú Diêu với tư cách là một nghệ sĩ ngôn từ cũng thực đáo để trong lĩnh vực hiểu biết và vận dụng tâm lý con người cho nhân vật của mình!

 

 

"Ngày phục thù báo oán" của Ngọc Mai cũng là ngày bọn tướng cướp Hắc Sát - Bạch Hoạch trả thù riêng với Thạch Nghị ngay tại tư dinh, nhân lúc lão đi vắng. Kim Liên bị chúng bắt sau một cuộc giao chiến. Trong khi hai tên tướng cướp đang tỏ ra cao thượng nhường nhịn nhau "chiến lợi phẩm" là trang thục nữ để làm người "vầy duyên tơ tóc", Ngọc Mai vô tình lạc vào lãnh địa của chúng; và giữa lúc nàng còn đang hận đến độ muốn "móc tròng con mắt" đối phương thì bị sa vào tay bọn cướp. Ngọc Mai bị giam cùng với Kim Liên.

 

Trong ngục tối, Ngọc Mai đau khổ vật vã, được Kim Liên bình tĩnh an ủi. Tình cờ, Ngọc Mai nhìn thấy vòng ngọc của Kim Liên thì bật khóc, hỏi ra mới biết: "Ngọc đó tức là ngọc đây/ Chồng em tức là chồng chị". Sau khi nghe Kim Liên giải thích mọi nguồn cơn, Ngọc Mai đã trân trọng ơn nghĩa trời biển của cha con Kim Liên, và thừa nhận rằng mình đã nhất thời oán trách người vô tội... Còn Kim Liên không những tỏ ra là một phụ nữ biết điều khi cúi xin Ngọc Mai tha thứ cho sự vô tình của mình (dù là cái vô tình "thiên duyên" - duyên trời ban), nàng còn thể hiện là một nữ lưu sáng suốt, thông minh, dũng cảm: Kim Liên bày mưu cùng Ngọc Mai hạ độc tên Bạch Hoạch rồi rủ nhau trốn thoát. Hắc Sát dẫn lâu la truy đuổi hai người.

 

Trong hoạn nạn, tình chị em thân thiết đã gắn kết Ngọc Mai với Kim Liên. Suốt chặng dài chạy trốn, Kim Liên luôn động viên giúp đỡ Ngọc Mai, và họ đã phải đối diện với lưỡi gươm tanh máu của bọn cướp truy sát đến cùng... Giữa khi nguy cấp, Kim Liên phải vừa đỡ gươm giáo vừa cõng Ngọc Mai tìm cách thoát vòng vây, thì cha nàng là Thạch Nghị kịp tìm đến nơi. Hắc Sát bị Thạch lão giết chết trong cuộc giao chiến...

 

Tất cả trở về dinh cơ Thạch Nghị. Tại đó, Ngọc Mai chìm trong nỗi nhớ thương, uất hận đến độ chết ngất đi, lâm trọng bệnh. Hiểu rằng Ngọc Mai đã mắc bệnh nội thương do chính mình gây ra, Kim Liên rất xót xa, nàng nguyện mắc tội bất hiếu là cắt da thịt mình lấy máu hòa vào thuốc cho Ngọc Mai uống... Ngọc Mai tỉnh lại, lòng tràn đầy nghi hoặc: vì sao mình vẫn còn sống an toàn cho đến lúc này…

 

Hiểu được tâm sự ngổn ngang của Ngọc Mai - mà căn cốt của chúng là mối ghen tuông dày vò, thần Thổ địa đã đưa linh hồn mẹ Ngọc Mai là bà Kim Cảnh từ cõi âm về cõi dương mong giải tỏa được mối ghen tuông đó. Trong chiêm bao, nhờ những lời lẽ giàu lý nặng tình của mẹ, và nhất là khi được mẹ báo mộng cho biết: Kim Liên đã cắt thịt hòa huyết cho mình uống, Ngọc Mai đã đột nhiên tỉnh ngộ về cái ơn nghĩa sánh với "trời sinh đất dưỡng" kia...

 

Đúng vào lúc đó, Kim Liên sinh hạ được một bé trai. Trước niềm hạnh phúc của người mẹ trẻ cùng nỗi "cảm thương" cho đứa bé "chưa thấy mặt cha", trái tim Ngọc Mai mềm lại; và nàng như bật khóc trước tấm lòng của một người làm cha được làm ông, trước nỗi mừng mừng tủi tủi của ân nhân Thạch lão - người mà nàng đã tự nhiên thốt gọi là "thân phụ". Nàng đề nghị được đáp đền ơn nghĩa "Cho trọn vẹn cha đâu con đó". Từ giờ khắc ấy, dù chồng chung còn đang lận đận đâu đó với công danh, nhưng ở nơi này "Chị em hòa thuận phỉ nguyền cùng nhau"...

 

Cái kết "Cha con chồng vợ sum vầy ấm êm" theo triết lý "ở hiền gặp lành" phù hợp với tâm lý chờ mong của dân gian, và cũng xuất phát từ những tình huống tâm lý chân thực, không hề có chút gượng ép nào!

 

Cảnh thần Thổ Địa hiện về và giấc chiêm bao gặp mẹ của Ngọc Mai là yếu tố phi thực duy nhất của "Liệu đố". Nhưng, thần Thổ Địa trong kịch bản này thực ra chỉ là  hiện thân của lương tri dân gian- người phát ngôn cho những điều của đạo lý tồn tại vượt qua mọi dây nhợ trói buộc xã hội. Và hồn bà Kim Cảnh, xét cho cùng cũng chỉ là tiếng nói của đáy sâu tâm hồn Ngọc Mai! Nếu như Ngọc Mai không sẵn có một trái tim lương thiện, lại không trải qua bao đận gian nguy để có dịp thấu hiểu lòng người, thì dù có hàng ngàn lần hồn mẹ hiện về cũng không thể gỡ bỏ nổi cơn ghen khiến nàng "Ôm lòng chịu trăm đường tức tối"! Những lời giảng giải của mẹ về đạo nghĩa làm người trong chiêm bao thực ra đã sẵn có trong lòng Ngọc Mai, hơn thế, chúng đã được kiểm nghiệm, được soi sáng bằng thực tiễn khốc liệt đầy máu lửa! Mượn hồn ma để khắc họa & khai thác tâm lý nhân vật chính một cách thấm thía, rung cảm, đầy sức thuyết phục - phải nói đó là sự tìm tòi sáng tạo quý báu của tác giả. Và, cũng như ở những vở tuồng khác của cụ Tú Diêu- ví như "Ngũ hổ bình liêu", cảnh ngộ càng éo le nguy hiểm bao nhiêu thì tình cảm con người càng có điều kiện bộc lộ sự gắn kết bấy nhiêu. Phải chăng, đó cũng là một trong những bí mật của sức cuốn hút người xem trong các tác phẩm nghệ thuật lớn xưa nay - đặc biệt là kịch?

 

Sự kiện kịch ở đây dồn dập nhưng không hề che lấp diễn biến phức tạp của tâm lý; còn sức mạnh của tâm lý tình cảm nhân vật đã dẫn dắt câu chuyện kịch một cách tự nhiên và hấp dẫn! Đằng sau/ bên cạnh cái hồi hộp do tình tiết câu chuyện đem lại, là cái thổn thức âu lo, cái quặn đau xé lòng xé ruột, là nỗi chua xót đắng cay… trong nội tâm nhân vật do ngoại cảnh tác động, do những quan hệ mới, những khám phá sự thật mới nảy sinh bởi các tình huống xung đột. Ngược lại, nhiều tình huống xung đột được tạo ra lại xuất phát bởi chính tâm trạng và các động lực tâm lý! Ngoài ra, kịch bản "Liệu đố" xử dụng khá điệu nghệ những lời độc thoại nội tâm và những cơn mơ, những ảo giác, sự mê man  của thủ pháp điện ảnh hiện đại khiến cho tác phẩm càng có sức thấm sâu và bùng nổ trong lòng người đọc kịch bản/ người xem diễn (mà cuộc gặp của Kim Liên với mẹ ở Âm phủ hiện về là tiêu biểu...). Đó cũng là bài học khá sinh tử đối với nhiều người làm nghề Sân khấu & Điện ảnh hôm nay; và trong các khoa Văn hay các khoa của Nghệ thuật biểu diễn, vở "Liệu đố" có thể được đưa vào giảng dạy như một kiểu mẫu của bộ môn Kịch học! Ở góc độ điện ảnh, tôi cho rằng, nếu được chuyển thể, kịch bản "Liệu đố" chứa đựng khá đầy đủ những yếu tố để hứa hẹn trở thành một bộ phim ăn khách và có giá trị nghệ thuật…

 

Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn đã có một nhận xét chí lý về căn bản nội dung nghệ thuật vở tuồng "Liệu đố": "Phương thang của Quỳnh Phủ tiên sinh chữa cái bệnh kinh niên này (bệnh ghen - MA NAT) là kêu gọi lương tri, lương năng của con người thông cảm, chia sẻ cho nhau những vui buồn; nhường nhịn thương yêu nhau những được mất mới giải quyết nổi một vấn đề xã hội thường xảy ra mà không ai muốn cả. Điều quan trọng trong phương thang là vị thuốc sống thật, là sự thật. Biết được sự thật thì con người có thể sướng khổ sống bên nhau." (Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu - ông đồ nghệ sĩ- Sđd). Tôi thiển nghĩ, đó cũng là nguyên do chính khiến cho vở "Liệu đố" mang hơi thở của cuộc sống hiện đại và có sức sống lâu bền qua thời gian.

                    

 

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Bảy 201911:23 CH(Xem: 18449)
Lần đầu được đọc tập ký hoàn chỉnh của nhà báo Đinh Quang Anh Thái, một tác giả người Việt hải ngoại, tự nhiên trong đầu tôi nảy ra sự so sánh với hàng ngàn vạn bài ký “mậu dịch” của hơn tám trăm tờ báo dưới sự chăn dắt của Ban Tuyên giáo Trung ương. Hóa ra, đó toàn là những sản phẩm đồng phục được chế tác bởi những tác giả, qua sự đào luyện của hệ thống trường ốc, trong đó, cá tính đã được mài nhẵn, tư tưởng được kiểm soát chặt chẽ, mọi phản biện xã hội đều bị giới hạn trong phạm vi cho phép, vì thế, cái gọi là ký ấy chỉ là những văn bản véo von ca ngợi, tự sướng của những cây bút thủ dâm chính trị, tự huyễn hoặc mình. Loại báo chí ấy chẳng những không có lợi, mà trái lại, rất có hại, bởi nó thực chất là dối trá, lừa phỉnh nhân quần.
12 Tháng Sáu 20196:05 CH(Xem: 19597)
Bài thơ chữ Hán Điệp tử thư trung (Con bướm chết trong sách) được xếp ở sát cuối phần Làm quan ở Bắc hà (1802-1804), trong Thanh Hiên thi tập.(1) Có thể nói đây là một trong những bài thơ hay nhất, và kỳ lạ bậc nhất của Tố Như, khi ông chưa tới tuổi “tam thập nhi lập.” Hay và kỳ lạ, song xưa nay nó mới chỉ được điểm qua, chưa hề được phân tích bình giải một cách thấu đáo. (Trong khi, bài Độc Tiểu Thanh ký xếp liền sau đó lại được khai thác khá kỹ trong hàng chục bài viết - ở các bậc phổ thông, đại học và nhiều diễn đàn văn chương). Có lẽ, bởi tính chất kỳ lạ và trừu tượng đến khó hiểu của nó?
15 Tháng Năm 20195:35 CH(Xem: 23298)
Trên vạn dặm Trung Hoa, trong số những di tích lịch sử tôi có dịp được tham quan, có lẽ đền thờ Nhạc Phi nằm ở chân núi Thê Hà cạnh Tây Hồ, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang là di tích để lại cho tôi nhiều ấn tượng khó quên hơn cả. Đặc điểm nổi bật nhất trong kiến trúc của khu đền là giữa không gian rộng rãi, có khu mộ Nhạc Phi cùng con trai Nhạc Vân, đối diện là bốn bức tượng sắt quỳ nhốt trong cũi sắt, đã tạo nên nét đặc sắc chưa từng thấy trong các di tích lịch sử ở Trung Quốc cũng như trên thế giới… Hơn hai trăm năm trước, đại thi hào Nguyễn Du đã tới nơi này, để lại 5 bài thơ chữ Hán vịnh sử bất hủ về Nhạc Phi và những kẻ thủ ác hãm hại người anh hùng của đất nước Trung Hoa cổ đại.
14 Tháng Năm 20199:20 CH(Xem: 20265)
Bài thơ: “Cúng Dường” của thiền sư, thi sĩ Tuệ Sĩ đã được nhiều giảng sư, luận sư, triết gia chuyển dịch, tất cả đều dịch rất sát, rất hay, nhưng trên ý nghĩa của mặt chữ, đã khiến dư luận cảm thương, tội nghiệp khi đọc thi phẩm này, mà theo tôi, sự giải thích sát nghĩa như vậy đã ngược lại hoàn toàn tính hùng vĩ và đại bi tâm của nhân cách tác giả và thi phẩm.
13 Tháng Năm 20198:54 CH(Xem: 18743)
Cù Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình trung nông lớp dưới. Bố Huy Cận đậu tam trường làm hương sư ở Thanh Hoá, sau về quê dạy chữ Hán và làm ruộng. Mẹ Huy Cận là cô gái dệt lụa làng Hạ nổi tiếng ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ.
24 Tháng Tư 201911:02 CH(Xem: 19710)
Nhà báo Pháp Paul Dreyfus là một trong 25 nhà báo Pháp có mặt tại Sài Gòn vào giờ phút cuối cùng của tháng Tư năm 1975. Trong cuốn sách của mình với tựa đề "và Sài Gòn sụp đổ" (Et Saigon tomba - Collection Témoignages 1975), tác giả đánh giá sự kiện Sài Gòn thất thủ là sự kiện 'quan trọng nhất' với hệ thống cộng sản châu Á sau cuộc tiến vào Bắc Kinh năm 1949 của Mao. Ông thuật lại những cảm nhận cá nhân qua những lần tiếp xúc với đại tướng Dương văn Minh, tổng thống cuối cùng của miền Nam, theo giới thiệu sau qua lời dịch của nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris: Theo Paul Dreyfus, tướng Minh là "một người minh mẫn và nắm vững tình hình". Những tâm sự của tướng Minh thời điểm đó mang lại một cách đánh giá đa chiều về nhân vật gây nhiều tranh cãi.
17 Tháng Tư 20197:44 CH(Xem: 19341)
Tám bài thơ viết về Khuất Nguyên hoặc có liên quan tới Khuất Nguyên mà chúng tôi đã/ sẽ khảo sát đều được đại thi hào Nguyễn Du viết khi chu du trên sóng nước Tiêu Tương, vùng Hồ Nam - nơi nổi tiếng với “Tiêu Tương bát cảnh” từng thu hút cảm hứng vô hạn của bao thế hệ văn nhân, nghệ sĩ Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam…
08 Tháng Tư 20199:47 CH(Xem: 18279)
Khoảng thời gian ba thế kỉ XVII-XVIII-XIX là thời thịnh của thể loại truyện nôm. Các nhà văn thời này đều có chấp bút và đã lưu lại nhiều tác phẩm văn chương lôi cuốn nhiều thế hệ người đọc. Truyện Phan Trần là một truyện nôm ra đời trong thời kì này, cụ thể là khoảng cuối thế kỉ XVIII, trễ lắm là đầu thế kỉ XIX.
02 Tháng Tư 201910:27 CH(Xem: 20792)
Cũng như hai bài thơ Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu đã khảo sát ở phần I, trong các bài thơ còn lại về chủ đề này, Nguyễn Du vẫn say mê trò chuyện, luận bàn, thậm chí tranh cãi với Hồn oan nước Sở từ hơn hai ngàn năm, như hồn đang hiển hiện quanh quất bên mình, trên dòng sông lịch sử tựa một nấm mồ lớn đang vùi lấp thân xác của một con người tri âm tri kỷ đặc biệt đối với ông.
09 Tháng Ba 201910:26 CH(Xem: 22119)
Hơn hai trăm năm trước, trong một cuộc “Bắc hành”, đại thi hào Nguyễn Du đã viết tới tám bài thơ chữ Hán về Khuất Nguyên hoặc có liên quan tới Khuất Nguyên. Trong “tòa lâu đài” thơ chữ Hán Nguyễn Du (Mai Quốc Liên), có một mảng thơ rất quan trọng là nói về các danh nhân văn hóa - lịch sử, đặc biệt là về các bậc thầy văn chương Trung Hoa. Tám bài thơ nói trên mà chúng tôi sẽ khảo sát có trữ lượng suy tưởng - cảm xúc cực kỳ phong phú, sâu sắc, cho thấy cả trái tim lớn của đại thi hào nước Việt dành cho một nhà thơ-nhà ái quốc vĩ đại của Trung Hoa cổ xưa, đồng thời thể hiện bút pháp siêu việt của Nguyễn Du trong khả năng khám phá chiều sâu tâm hồn bản thân lẫn đối tượng miêu tả, trong sự sáng tạo về nghệ thuật ngôn từ của một nhà văn-nghệ sĩ Việt Nam kiệt xuất thời Trung đại.