- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Đồng hồ dừng lại từ 30 tháng 4-1975

17 Tháng Tư 202112:36 SA(Xem: 10894)

Nguyen Mong Giac-Dong ho dung lai





NGUYỄN MỘNG GIÁC

Đồng hồ dừng lại

từ 30 tháng 4-1975

 

Trong cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà, của Trần Mai Hạnh (đăng nhiều kỳ trên tuần báo Văn Nghệ từ số 12  ra ngày 18.3.2000), tác giả tưởng tượng ra cuộc đối thoại như sau giữa Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh Quân đoàn 1 và viên Tổng lãnh sự Mỹ tại Đà nẵng:

“An Phran-xít xộc vào giữa lúc Trưởng đang hối thúc đám tay chân thân tín tiêu hủy tài liệu. Thấy An Phran-xít, Trưởng không trịnh trọng bước tới bắt tay như mọi khi mà chỉ cất tiếng chào:

- Xin chào Ngài Tổng lãnh sự! Tôi tưởng Ngài đã ra đi.

- Sân bay hỗn loạn. Không một máy bay nào lên xuống được. Người của tôi đi chưa hết. Không một ai giúp tôi. Tôi phải can thiệp và tụi lính của ngài đã xông vào hành hung tôi.

- Bây giờ tôi có thể giúp được điều gì, thưa Ngài Tổng Lãnh sự?

- Ông hãy ra ngay phi trường với tôi, ông trung tướng. Nếu không máy bay Bô-inh và máy bay vận tải không thể hạ cánh. Phó đại sứ Lê-man vừa điện nói Nhà Trắng lệnh trong vòng 12 giờ tới việc di tản người Mỹ và những người cần thiết khỏi Đà nẵng phải hoàn tất!

Trưởng giơ cả hai tay lên trời, lắc đầu:

- Không được đâu, Ngài Tổng Lãnh sự. Phi trường và cả thành phố này đã hỗn loạn. Không còn chỉ huy được nữa. Ngài có muốn bỏ mạng thì hãy ra đấy.” {Tuần báo Văn Nghệ, số 14, thứ Bảy 1.4.2000}

 

Người viết đoạn đối thoại trên đây không phải là một cây bút mới chập chững vào nghề. Ông là phóng viên mặt trận của Thông tấn xã VN (Hà nội) tại chiến trường Bắc Quảng Nam-Đà Nẵng những năm 1968-1970, sau đó là đặc phái viên của Thông tấn xã VN trong chiến dịch tấn công Sài Gòn tháng Tư 1975. Trần Mai Hạnh là Phó chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Nhà báo Việt Nam, nghĩa là một ký giả “có thẩm quyền”.

Tờ báo đăng đoạn đối thoại trên, cũng là một tờ báo “có thẩm quyền”. Tuần báo Văn Nghệ là cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam, một Hội có trên 700 hội viên, va được gia nhập hội không phải là dễ dàng.

Hai cái “thẩm quyền” lớn lao gặp nhau, rồi đẻ ra đoạn đối thoại mà một độc giả bình thường gốc Miền Nam đọc xong cũng cảm thấy có cái gì bất ổn, cái gì rất chối tai!

Phải! Rất chối tai, là cách xưng hô của viên Tổng Lãnh sự Mỹ và Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1 Ngô Quang Trưởng, qua óc tưởng tượng của Trần Mai Hạnh. Tổng lãnh sự Mỹ có một lần gọi Ngô Quang Trưởng là “ngài” (không viết hoa), còn những lúc khác trong tiểu thuyết đều gọi vị Tư lệnh Quân đoàn 1 bằng tiếng “ông”. Còn Ngô Quang Trưởng thì lúc nào cũng gọi viên Tổng lãnh sự bằng tiếng “Ngài” (viết hoa). Những người lớn lên ở Miền Nam đều biết ro trong ngôn ngữ giao tế hằng ngày, từ vĩ tuyến 17 trở vào, không ai dùng tiếng “Ngài” đầy khúm núm để thưa gửi trước những chức quyền cao hơn mình. Không phải người Miền Nam không sợ cấp trên, hoặc ở Miền Nam trước 1975 không hề có những bọn xu nịnh. Nhưng tiếng “Ngài” là một tiếng Việt đã lỗi thời, từ lâu không ai còn dùng nữa. Có nhiều cách nịnh nọt cho bề trên vừa lòng, nhưng tuyệt nhiên người Miền Nam không chọn cách dùng một cách xưng hô cổ lỗ chỉ làm cho bề trên khó chịu nhíu mày.

Không ai trách Trần Mai Hạnh viết đoạn đối thoại trên đây nếu ông viết như thế vào những tháng sau ngày 30.4.75. Trong chiến tranh, những người ở khác chiến tuyến khó long hiểu rõ kẻ thù. Nhưng Trần Mai Hạnh cài vào miệng Trung tướng Ngô Quang Trưởng tiếng “Ngài” đầy tự ti khúm núm, hai mươi lăm năm sau khi chiến tranh chấm dứt. Một phần tư thế kỷ đã trôi qua, người chiến thắng tự kiêu tự mãn nhất cũng có thời gian sống chung với đám đông chiến bại để thấy họ cũng có những ưu tư, lo nghĩ, vui buồn giống mình. Một ký giả hạng xoàng cũng ghi nhận được những năm đói kém lầm than sau chiến thắng tháng Tư, những hoang mang lo âu khi khối Liên xô và Đông Âu tan rã, cuộc di dân thầm lặng để tìm đất sống xáo trộn Bắc Nam để những ranh giới địa phương ngày càng mờ nhạt, phong trào vượt biển ào ạt kèm theo những thảm trạng trên biển Đông suốt thập niên 80...Rõ ràng đối với Trần Mai Hạnh, kim đồng hồ đã dừng lại từ ngày 30.4.75. Những gì đã định hình trong đầu óc ông trước ngày ông vào Sài Gòn đã bám chặt lấy ông, không cho ông thay đổi theo những thay đổi loại “trời long đất lở” trong suốt một phần tư thế kỷ. Những cái định hình qua tiếng “Ngài” ông gán cho Trung tướng Ngô Quang Trưởng là gì? Là tinh thần tự ti mặc cảm trước người da trắng của chính ông, rồi ông truyền cái bệnh ấy lên những nhân vật mà ông xếp vào hàng kẻ thù. Đọc báo chí trong nước, điều đáng buồn là những lời lẽ như lời lẽ của Trần Mai Hạnh không phải hiếm. Ngược lại, nhan nhản. Căn bệnh không phải của một người, mà của cả một thế hệ.

Đồng hồ cũng dừng lại đối với những người phải bỏ nước ra đi, sau khi ông Trần Mai Hạnh và bạn bè của ông vào Sài Gòn. Họ ra đi từng đợt: đợt di tản, đợt thuyền nhân, đợt đoàn tụ gia đình, đợt H.Ọ Mỗi đợt ra đi mang theo một loại quê hương, và trong hoài niệm, không ai muốn thay đổi hình ảnh thân yêu ấy. Bạn bè, nhà cửa, phố xá, tên đường tên đất, cả đến ngôn ngữ trao đổi thường ngày...giống như một cuốn phim đột ngột bị đứt, ngưng lại, thành tĩnh vật. Sửa đổi một chi tiết nhỏ trong bức tranh tĩnh vật ấy là xâm phạm lên cái gì thiêng liêng nhất của người lưu vong. Kho từ ngữ đóng cửa khóa kín, không cho phép những tư mới lọt vào. Tên phố chỉ gợi xúc động khi người đối diện nhắc đến cái tên cũ trước đây hai mươi lăm năm. Một tâm lý thông thường trong thế hệ người già ở hải ngoại: cái gì cũ đều quí giá, nhất là những cái cũ liên quan đến một thời vàng son của đời mình. Cho nên, mới có những ca khúc được tiếp tục ái mộ không phải vì giá trị tự thân của nó, mà chỉ vì nó là một thành phần không thể thiếu của bức tranh tĩnh vật quê hương. Rõ ràng đồng hồ đã đứng lại, và nhiều người không muốn biết những gì đã xảy ra trên quê hương. Họ đã có sẵn một hình ảnh quê hương, và không muốn biết, không muốn tìm hiểu một thứ quê hương nào khác.

Hiện tượng tái hiện những kiểu mẫu cũ của đời sống Miền Nam hoặc sinh hoạt của Sài Gòn trong đời sống mới nơi xứ người cũng là biểu hiện của tâm lý trì níu quá khứ ấy. Nhiều khiêu vũ trường ở Bắc Mỹ hay Úc châu vẫn trương bảng hiệu Tour do Ivoire, Queen Bee, Maximõs.  Tiệm phở thì Tàu Bay, Hiền vương, Xe Lửa, Quyền, Công Lý. Tạp chí thì Văn, Khởi Hành, Văn Học... Các hội ái hữu cựu học sinh trường này trường nọ ra đời, từ trường qua đến lớp, đến niên khóa. Một tập kỷ yếu cựu học sinh có nội dung bài vở, hình ảnh tùy thuộc vào thế hệ chủ trương biên tập của tập đặc san ấy, như một lát cắt từ khối kỷ niệm lớn. Những cựu học sinh khác thế hệ đọc tập kỷ yếu thấy như ngươi vào lầm nhà lạ: thầy khác, bạn khác, những trò tinh nghịch cũng khác.

Cùng một hoài niệm về quê hương, nhưng hình ảnh quê hương mang theo trên đường ly hương khác nhau, nên cộng đồng người Việt hải ngoại sống và sinh hoạt theo từng nhóm, các nhóm ấy càng ngày càng thu hẹp lại. Không phải ngẫu nhiên mà hai người Việt xa lạ gặp nhau lần đầu, câu hỏi làm quen trước tiên là hỏi năm rời quê hương. Đó là một cách định vị để dễ dàng tìm lời thích hợp mà trao đổi về sau. Không cùng chia nhau một thứ quê hương, khó ăn khó nói lắm!

Những tranh luận, đả kích, chống đối, thậm chí chửi bới nhau thậm tệ trên báo chí, đài phát thanh, Internet...trong cộng đồng người Việt, phần lớn là do không nhìn về cùng một thứ quê hương, nên khác nhau trong cách tìm kiếm một giải pháp, một đường lối. Họ ngồi với nhau trong cùng một phòng, nhưng đồng hồ trên cổ tay họ đã ngưng chạy ở những thời điem khác nhau, thì đồng ý làm sao được về một “lịch trình hành động”! Có cái gì bi thảm, như cuộc tranh luận hào hứng và sôi nổi giữa hai người điếc!

Cùng đeo đồng hồ đã ngưng chạy từ lâu, nhưng giữa ông Trần Mai Hạnh và nhưng nạn nhân của ông có điểm khác nhau: những người Việt ly hương bất đắc dĩ đáng được thông cảm, còn ông Trần Mai Hạnh và bạn bè của ông thì đáng giận, đáng trách. Vì quê hương đang ở trong tầm tay của ông. Đám đông thap cổ bé miệng mong mỏi được những nhà báo, nhà văn “có thẩm quyền” như ông hiểu rõ hoàn cảnh của họ, ước vọng của họ hôm nay, tháng Tư năm 2000. Nhưng ông suy nghĩ, viết lách như một người sống hai mươi lăm năm về trươc. Ông không thông cảm nổi với những người đã từng chống ông trong chiến tranh, đấy là quyền của ông. Nhưng hình như ông cũng không thông cảm được với lớp trẻ tuổi trên dưới ba mươi hiện nay, là một nửa đám đông đang ở dưới quyền sinh sát của bạn bè ông. Trong lúc thế giới thay đổi từng ngày nhờ tiến bộ chưa từng có của khoa học kỹ thuật, quê hương Việt Nam lại “được” những người mang đồng hồ đã ngưng chạy từ một phần tư thế kỷ lãnh đạo. Bi kịch thực sự của dân tộc là ở chỗ đó!

 

NGUYỄN MỘNG GIÁC

Viết vào tháng Tư năm 2000,

trích  “Nghĩ về Văn học Hải ngoại”, nxb Văn Mới 2004

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Sáu 20221:34 SA(Xem: 7893)
I. Mấy câu hỏi, đúng hơn là những ý tưởng như bâng quơ, có gì hơi cổ lỗ, song vốn nằm sâu trong tiềm thức và có khả năng đánh thức sự lười biếng của tư duy giữa bao lo toan bề bộn đời thường lắm khi thấm máu và nước mắt: “Vì sao tôi viết“, “Văn học có ích gì cho xã hội?”, “Ngày hôm nay, văn học có cần thiết lắm không? Cần cho ai?”, “Văn học với thực tại xã hội?”, “Điện ảnh cần gì ở văn học”, v.v.
11 Tháng Sáu 202211:28 CH(Xem: 8594)
Nhiều người đã kể rõ và lý giải hiện tượng CHẠY cho đến nay đã trở thành những guồng quay điên cuồng trên các lĩnh vực, trong các giới xã hội - chạy Quyền, chạy Chức, chạy Dự án, chạy Danh hiệu, chạy Bằng cấp, chạy Giải thưởng, chạy Cúp vàng, chạy Thành tích, chạy Điểm, chạy Vai diễn, chạy Lớp, v.v. Đã “Chạy” thì phải bắt buộc “Mua”, mua bằng bất cứ giá nào, thậm chí bằng cả nhân phẩm.
25 Tháng Năm 20226:30 CH(Xem: 7883)
Cách đây mấy năm, trong khi làm phim tài liệu chân dung “Lê Đại Cang - nhân cách bậc quốc sĩ”, nhà báo - Tổng BT tạp chí Văn Hiến Nguyễn Thế Khoa đã đưa tôi tới sông đào Ngũ Huyện Khê để ghi hình ảnh bộ cho phim này.
13 Tháng Tư 20229:16 CH(Xem: 8634)
Nói một cách đầy đủ là: Nguyễn Du - người Việt Nam đầu tiên đã tìm mọi cách giúp Dân tộc mình “thoát Trung” - một khái niệm hiện đại mang ý nghĩa Địa-Chính trị, Địa-Lịch sử trọn vẹn, có tính thời sự sâu sắc.
18 Tháng Ba 20229:28 CH(Xem: 8466)
Ngày 25/2/2022, một ngày sau khi Vladimir Putin cho lệnh đại quân Nga xâm lăng Ukrania từ ba hướng Đông Nam, Đông Bắc và Tây Bắc, trong khi oanh tạc cơ và tên lửa đủ cỡ tàn phá, khủng bố các thành thị, bất ngờ nhận được e-mail của Vũ Thái Khiêm, sinh viên electrical engineering tại Đại hoc Texas-Tyler: “Gỉa sử Mỹ không có support từ NATO mà Nga & Trung Quốc cả 2 đánh Mỹ cùng lúc thì ông nội nghỉ Mỹ có thắng được không?
06 Tháng Ba 202211:33 CH(Xem: 9110)
Vào thứ Tư, 2 tháng Ba, 2022, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu đại đa số lên án nước Nga xâm lược Ukraine (bắt đầu từ 24 tháng Hai, 2022). Trong số 193 nước hội viên, 141 nước đã bỏ phiếu thuận, yêu cầu Mạc Tư Khoa phải chấm dứt chiến sự và rút quân ra khỏi lãnh thổ Ukraine. Trong số năm nước bỏ phiếu chống, tất nhiên dẫn đầu là lá phiếu của Nga, quốc gia gây chiến, và bốn nước khác là Belarus—đồng minh thân cận nhất của Nga— sau đó là Bắc Hàn, Eritrea và Syria. Tất cả năm nước này đều là những chế độ độc tài toàn trị. Điều đáng chú ý hơn cả là trong các lá phiếu trắng của 35 nước (có 12 nước không bỏ phiếu), dẫn đầu là Trung Cộng, có cả một quốc gia mang tên nghe khá kêu là nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
18 Tháng Hai 20224:41 CH(Xem: 8382)
Đó là cảm xúc mạnh nhất, là ấn tượng bao trùm trong tôi về bộ phim Nga “Chống lại Tình yêu” trên FB Khoanglangnuocnga, kể từ những cảnh dài không âm thanh ở đầu phim do máy quay lặng lẽ trượt qua hồ với những cây cối chìm trong băng tuyết, dưới mắt một cậu bé - tới cảnh cuối, sau cảnh tờ rơi tìm trẻ mất tích dán cột bê tông phủ tuyết, lại trở về cảnh đầu phim tựa trong thời tiền sử, giống như ở bộ phim "Leviathan" của chính đạo diễn bộ phim này: Andrey Zvyagintsev!
11 Tháng Hai 20224:35 CH(Xem: 9692)
Bắc Kinh có khả năng dùng “vũ khí nước” như một đòn ngoại giao bắt 25% dân số thế giới làm con tin / holding hostage. Khác với những hồ chứa đập thuỷ điện, vừa giữ nước vừa xả nước, Sông Cờ Đỏ là một chiến lược đổi dòng lấy nước – có nghĩa là 100% lượng nước này sẽ bị mất đi – không bao giờ được đền bù, đối với các quốc gia hạ nguồn. [1]
24 Tháng Giêng 202210:09 CH(Xem: 8765)
Nguyễn Du từng viết: Tri giao quái ngã sầu đa mộng - Bạn bè thân thiết lấy làm lạ rằng sao ta hay sầu nhiều mộng? Và ông trả lời luôn: Thiên hạ hà nhân bất mộng trung - Nhưng thiên hạ ai là người không ở trong mộng? (Ngẫu đề). Ông tuyên bố: Trần thế bách niên khai nhãn mộng - Cuộc trần thế trăm năm chỉ là giấc mộng khi mắt mở, và: Mộng trung minh phân kiến - Nay trong mộng thấy rõ ràng (Ký mộng)(1).
05 Tháng Giêng 20228:41 CH(Xem: 9558)
Dẫn nhập – Chiến tranh, không phải là chấp nhận hiểm nguy, không phải là chấp nhận giao tranh. Ở một thời khắc nào đó, với người chiến binh, là sự chấp nhận thuần túy và giản đơn cái chết. La guerre, ce n’est pas l’acceptation du risque, ce n’est pas l’acceptation du combat. C’est, à certaines heures, pour le combattant, l’acceptation pure et simple de la mort. A. de Saint-Exupéry (Pilote de guerre)