- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Nhân Cách “Thằng” và “Ông”

06 Tháng Mười Hai 201810:26 CH(Xem: 21363)


Tứ Đại -Cong Than- Cua Thuc Dan Phap

"Việt Gian có lũ thằng Tường

Thằng Lộc thằng Tấn thằng Phương một bầy"

Sông Hóa chỉ là một nhánh sông nhỏ tách ra từ sông Luộc tại địa phận An Khê; thế nhưng nó đã in dấu trong lòng người Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác chỉ vì nó khắc ghi lời thề của một dũng tướng: “Phen này không phá xong giặc Nguyên, ta thề không trở lại khúc sông này nữa”. Con sông đã trôi đi hàng nghìn năm nhưng câu nói của Hưng Đạo Vương như còn âm vang trong cỏ cây trời nước. Ngài nói câu ấy khi voi chiến bị sa lầy ở bờ sông Hóa; ngay trước phút xuất quân đánh trận Bạch Đằng với danh tướng giặc là Ô Mã Nhi.

 

Làm tướng phải có khí phách của người làm tướng, trước khó khăn không hề nao núng, thế cho nên đoàn chiến thuyền của quân giặc Mông Thát lại một phen nữa tan tác trên giòng sông Bạch Đằng.

 

Tôi có cái bệnh (có lẽ không ít người VN cũng thế) là hoài cổ, là say mê lịch sử nên chuyện gì xảy ra trong hiện tại cũng làm mình hồi tưởng đến những chuyện ngày xưa. Nhắc lại câu chuyện trên để sẻ chia cùng người dân nghèo quê tôi những điều não lòng khi phải chứng kiến phiên xử cựu Trung Tướng Phan Văn Vĩnh, ông Tướng đã từng đoạt danh hiệu vinh dự, cao quý nhất của nước ta: “Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân”.

 

Nhưng trước hết, tưởng cũng cần nhắc lại phiên xử hai ông thượng tá Phan Văn Anh Vũ và Đinh Ngọc Hệ. Nếu hôm 30/7 thượng tá Đinh Ngọc Hệ đã rất thành khẩn khi khai báo trước hội đồng xét xử rằng bằng cấp đại học của ông chỉ là bằng giả, và rằng “trình độ dân trí bị cáo thấp”; thì Tướng Vĩnh cũng thành khẩn không kém :“Do trình độ hạn chế, do năng lực có hạn” và  rồi ông khóc khi được tháo còng tay.

Từ thái độ thiểu não của các cán bộ lãnh đạo trong vụ án Trịnh Xuân Thanh, Đinh La Thăng đến thái độ vụng về té ngã, quên quên, nhớ nhớ  trước tòa của tướng Vĩnh làm chúng ta không khỏi kinh hãi với cái ý nghĩ – Than ôi! Thời buổi loạn lạc mà lãnh đạo đất nước ta sao lại thế. Người được sắc phong hàm tướng của cả một lực lượng được xem là thanh kiếm, là lá chắn của tổ quốc sao nhân cách lại thế! Không ai nỡ trách người sa cơ, nhưng nhân cách ấy mà là tướng lĩnh, là cán bộ lãnh đạo thì chúng ta là ai đây? Dân tộc ta sao lại chịu hèn kém thế này!

 

Tôi lại ngậm ngùi nghĩ đến lịch sử, nghĩ đến chữ “thằng” trong văn hóa dân gian VN. Người Việt ta xưng hô ai đó là “ông” để bày tỏ lòng kính trọng, và gọi bằng “thằng” những kẻ hèn hạ đáng khinh. Lịch sử ta chép rằng một trong những truyền thống của người Việt cổ là tín ngưỡng thờ cúng các vị anh hùng, thũ lĩnh. Người VN trọng cái khí phách, cái đảm lược của một tướng lĩnh trước gian nan, kính cái đức hy sinh, thờ người dám xả thân vì nước; bởi thế cho nên lại càng thêm khinh ghét những kẻ nhu nhược, luồn cúi, làm tay sai cho giặc. Thời Pháp thuộc cha ông ta có câu vè để răn con cháu:

 

Việt Gian có lũ thằng Tường

Thằng Lộc thằng Tấn thằng Phương một bầy

Thằng Tường tức danh sĩ Tôn Thọ Tường, Thằng Lộc là Tổng Đốc Trần Bá Lộc, Thằng Tấn là Lãnh binh Huỳnh Công Tấn và Thằng Phương là Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương. Tất cả bốn người trên đều là những “quan to”, thuộc hàng thượng lưu do cộng sự đắc lực và có công lớn với thực dân Pháp trong những vụ truy nã, đánh dẹp các phong trào nghĩa quân của ta. Cha ông đã liệt họ vào hạng “Thằng” để nói lên sự khinh miệt những kẻ theo giặc “cõng rắn cắn gà nhà” là vậy.

Ngày nay các quan to của nước ta đa số là quan tham; chỉ khi bị vướng vòng lao lý thì mới thành khẩn nhận rằng mình xài bằng giả, mình năng lực kém, mình “não bé” chỉ có trái tim trung thành với đảng (lời của Tướng Hóa). Mà đảng thì đã thần phục Trung Quốc; cho nên hễ dân đi biểu tình chống Trung Quốc là chúng mê muội, cứ y lịnh của giặc mà đánh đập người dân đến tóe máu, mà nhốt tù người dân vô tội vạ.

Không ai chối cãi rằng bạo lực cộng sản đã hủy diệt ý thức và đánh gục ý chí của dân tộc Việt sau hơn 70 năm cầm quyền. Nhưng muốn hạ gục một dân tộc thì cũng cần xem đến quá trình lịch sử của dân tộc đó. Chúng ta đã nhiều lần bị đánh gục nhưng điều quan trọng là người dân VN luôn luôn trỗi dậy mạnh mẽ để vực dậy chính mình và  đưa đất nước vượt qua biết bao đau thương và can qua. Điều này đang được nhìn thấy qua thái độ dũng cảm gần đây của số đông người dân VN trước các dự Luật Đặc Khu và An Ninh Mạng.

Và một khi đã nhận diện ra rằng lãnh đạo chỉ  là loại tay sai, chỉ là hàng “não bé” thì thái độ của người dân ngày nay cũng khác. Tôi nhớ đến chiếc dép của cô Nguyễn Thị Thùy Dương, khi cô ném thẳng nó về phía đoàn đại biểu Quốc Hội TPHCM trong buổi tiếp dân ở Thủ Thiêm; tôi nhớ thái độ điềm tĩnh của Bs Nguyễn Đình Thành khi nói với người mẹ trước ngày anh ra tòa thụ án “Mẹ an tâm, hãy xem như con đi học vắng nhà vài năm”; tôi nhớ đến nụ cười của người cựu chiến binh Lê Đình Lượng trước bản án 20 năm tù và câu nói vọng lên của chị Quý, vợ anh trước phiên tòa:“sao xử ít thế!”;…

Họ có cô đơn không? Họ có thể đang là thiểu số, họ có thể đang một mình nhưng chắc chắn họ không cô đơn. Họ đã từng có mặt trên mảnh đất này từ hàng nghìn năm trước, và là nhân tố tạo nên những cuộc đổi thay. Đất  nước này đang cần lắm những con người như thế, những người dân bình thường mang trong mình cái đảm lược của một vị tướng trước cảnh voi chiến bị sa lầy.

Nếu so với họ về nhân cách thì thật là đáng xấu hổ; nước ta ngày nay những kẻ làm tướng lĩnh, làm lãnh đạo chỉ toàn là “Thằng” cả. Thế nên trước những “trò hề công lý”, bảo sao anh chàng chiến binh Nguyễn Văn Túc chẳng nổi giận, mà mắng thẳng vào mặt những kẻ mặc áo gấm đỏ của Tòa Án Nhân Dân Hà Nội những điều dân gian nghĩ trong đầu: “ĐM Cộng Sản, ĐM Tòa.

Nguyệt Quỳnh

Ý kiến bạn đọc
07 Tháng Mười Hai 20188:31 SA
Khách
Tường là Nguyễn Văn Tường chứ không phải Tôn Thọ Tường
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89393)
T rần Hoài Thư đến với văn chương rất sớm, sớm hơn truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1965. Và nếu phân chia các giai đoạn văn học miền Nam theo cách của Võ Phiến (xem Văn Học Miền Nam, tập tổng quan, nxb Văn Nghệ, Hoa Kỳ 2000) thì Trần Hoài Thư được xếp vào ( Những Cây Bút Trẻ , theo cách gọi thời đó) giai đoạn 1964-1975 giai đoạn mà chiến cuộc bắt đầu bùng nổ dữ dội.
07 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 98647)
K hi đánh giá về ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tác giả đã đẩy ngôn ngữ bình dân lên ngôn ngữ bác học. Nhận định này đã gián tiếp phân cấp ngôn ngữ ca dao hò vè với ngôn ngữ thơ.
17 Tháng Chín 201112:00 SA(Xem: 96262)
C ái Tôi nội cảm cộng hưởng với cảnh đời riêng, tâm thế sáng tạo riêng đã hình thành kiểu tư duy kỳ lạ của thơ Loạn. Thơ Loạn ra đời dựa trên sự thăng hoa nghệ thuật của những nỗi đau, sự bung phá những giới hạn, sự phân ly và hòa hợp những đối cực, sự hợp lưu của nghệ thuật, tôn giáo và cuộc đời. Thế giới nghệ thuật trường thơ Loạn là ánh xạ đầy biến ảo của những cái Tôi trữ tình đau thương và khát vọng.
09 Tháng Chín 201112:00 SA(Xem: 95529)
K hi ta nói chuyện một con sông, thì chủ yếu là nói đến một khúc sông, như khúc sông Hương chảy qua thành phố Huế. Nói về một tác giả cũng vậy, thường ưu đãi ấn tượng về một tác phẩm nào đó. Với một sự nghiệp văn học đã trải qua nhiều ghềnh nhiều thác như của Thảo Trường, đánh giá toàn bộ là một việc khó.
20 Tháng Bảy 201112:00 SA(Xem: 88104)
N ói chung, người ta nghĩ đến giải nobel văn học cho Trần Dần. Tuy nhiên, Trần Dần còn có thể được xét tặng một giải nobel nữa: nobel hòa bình, nobel chính trị. Bài viết này đề xuất vấn đề đó.
17 Tháng Bảy 201112:00 SA(Xem: 96758)
S au năm 75, cũng như bao nhiêu nhà văn khác, Hạc Thành Hoa bị rơi vào vùng hẫng hụt của những nghị quyết, bo bo, sắn mì… Cả bối cảnh xã hội và hoàn cảnh cá nhân đã đặt ông vào tình cảnh trì trệ, đầu óc khô cứng. Dẫu vậy ông vẫn cầm bút và tiếp tục viết, để cuối cùng cũng cho ra mắt độc giả 2 tập Phía Sau Một Vầng Trăng và Khói Tóc. Song thú thật, khi đọc tôi có cảm giác như thơ ông đã sắp ngừng hơi thở những cơn mộng mị đẹp, đối mặt với thực tế có phần khắc nghiệt hơn nhiều, bởi hoàn cảnh xã hội đã chọn chúng ta chứ chúng ta không có quyền chọn lựa gì cả. Cái quyền thiêng liêng bất khả kia giống như ngọn đèn cạn dầu, leo lét.
02 Tháng Sáu 201112:00 SA(Xem: 91269)
"... B iểu hiện rực rỡ nhất của hoài niệm, là hoài niệm quê nhà, mà thực chất, cũng nằm trong chuỗi đơn cảm giác có tính cá nhân. Nên dễ nhận ra, chuỗi cảm giác đầu tiên là hướng về mô tả cảnh trí, phong vị tập quán, với một vóc dáng thi pháp ca dao đậm đà cảm hứng cội nguồn, đôi khi mang máng giọng điệu Tự Lực văn đoàn, đẹp, lãng mạn mà bùi ngùi.."
26 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 112893)
S inh viên Việt Nam tốt nghiệp ở các trường giỏi trong nước khi ra nước ngoài tiếp tục học ở các trường cấp trên thường đạt thành công không mấy khó khăn. Thế nhưng, khi nhìn vào chương trình giáo dục của Việt Nam hiện nay và theo dõi báo động của các nhà giáo dục trong nước, khó thể phủ nhận một thực tế là giáo dục tại Việt nam đang có vấn đề, ở mức độ khủng hoảng. Khủng hoảng hiện diện trong rất nhiều lãnh vực khác nhau của giáo dục.
15 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 93493)
T rường thơ Loạn manh nha từ nhóm thơ Bình Định với những tên tuổi như Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên. Đến năm 1936, nhận thấy tính khuynh hướng nổi trội trong sáng tác của từng người, Hàn Mặc Tử đã chủ trương thành lập trường thơ Loạn cùng với Yến Lan, Bích Khê và Chế Lan Viên. Từ đó mà trường thơ Loạn thực hiện cuộc hành trình đi từ âm vang Đường thi đến thung lũng đau thương , tràn bờ sang cả những bóng ma Hời trên tháp Chàm u uẩn, rồi chọn cho mình điểm dừng ở cuộc duy tân của Bích Khê.
12 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 94433)
LTS : Lần đầu cộng tác cùng Hợp Lưu, Hoàng Thuỵ Anh hiện sống và làm việc tại thành phố Đồng Hới. Chúng tôi trân trọng giới thiệu những bài viết của tác giả Hoàng Thuỵ Anh đến với quí văn hữu và bạn đọc của Hợp Lưu. TCHL