- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

VÕ THỊ XUÂN HÀ, TRẦM-TÍCH-CHỮ-NGHĨA, VĂN CHƯƠNG MỘT THỜI.

13 Tháng Tư 201812:09 CH(Xem: 26137)
vothi xuan ha
Nhà văn Võ Thị Xuân Hà


“…Trong tác phẩm của mình tôi luôn muốn và cố gắng nói được một điều gì đó, dù rất nhỏ, nhưng cũng phải chuyển tải một thông điệp nhân văn. Nhân vật của tôi dù có đê tiện, có ghê tởm đến đâu thì cuối cùng cái mà anh ta để lại trong lòng độc giả chính là niềm tin rằng anh ta sẽ tìm đến với cái thiện, vì vậy anh ta trở nên đáng thương, chứ không phải là đáng trách…”


Thành công sớm với nhiều giải thưởng, từ nhiều kênh mạch khác nhau, như truyện thiếu nhi, văn xuôi, kịch bản, Võ Thị Xuân Hà là một trong những nhà văn nữ có được cho riêng mình những quan niệm rạch ròi, dứt khoát về đời thường cũng như văn chương. 

Trả lời cuộc phỏng vấn của báo Tiền Phong (?), được tờ Việt Báo (VN) đăng tải lại từ báo Người Lao Động (1), cây bút từng tốt nghiệp thủ khoa khóa 4 trường Viết văn Nguyễn Du, Võ Thị Xuân Hà, thẳng thắn cho biết, “mưu sinh và viết, tôi đam mê cả hai”.

Chi tiết hơn, tác giả tập truyện ngắn “Kẻ đối đầu” Võ Thị Xuân Hà nói:

“Tôi đã trải qua nhiều năm tháng khổ sở và vất vả. Đang yên phận với nghề dạy học thì tôi chuyển qua làm báo, làm điện ảnh, rồi làm xuất bản... Đang yên ấm ở Huế cùng gia đình thì tôi theo chồng ra Hà Nội, đến khi gia đình riêng trắc trở, tôi một mình nuôi 2 cô con gái lớn khôn cho tới tận ngày hôm nay.

“Tôi vừa là mẹ, nhưng cũng vừa là cha. Ba người phụ nữ trong gia đình, chẳng lẽ tôi lại ủ rũ với một mớ ngổn ngang những đau khổ, dẫu chỉ là những thứ vặt vãnh.

“Tôi phải bước đi bằng đôi chân của mình, tự khẳng định mình. Phải kiếm tiền bằng chính sức lao động của mình nuôi các con ăn học. Tôi đã làm được cả ba điều: Sống, nuôi dạy con cái và viết văn…” (2)

Cũng trong cuộc phỏng vấn này, phát biểu về quan niệm văn chương, họ Võ khẳng định:

“ Tôi không biết các nhà văn khác quan niệm thế nào chứ riêng tôi, khi viết một tác phẩm, tôi không nghĩ đến việc mình phải viết thật sex, để câu khách, để bán sách kiếm tiền.

“Tuy nhiên, nếu trong truyện của tôi có những đoạn liên quan đến giới tính và tình dục thì cũng là do cuộc sống nhân vật nó phải thế. Nói một cách chân thực thì cuộc sống thường ngày của mỗi chúng ta chắc chắn đều có yếu tố tình dục cũng như chuyện ăn uống, hít thở, làm việc...

“Với tôi, tình dục không có nghĩa xấu mà ngược lại! Nhân vật Cầm Kỳ của tôi cũng yêu đương hết mình chẳng kém gì các bạn trẻ thế hệ @ nhưng cô ấy sẵn sàng dừng lại ngay khi cảm thấy lòng tự trọng bị tổn thương.

(…)

“…Trong tác phẩm của mình tôi luôn muốn và cố gắng nói được một điều gì đó, dù rất nhỏ, nhưng cũng phải chuyển tải một thông điệp nhân văn. Nhân vật của tôi dù có đê tiện, có ghê tởm đến đâu thì cuối cùng cái mà anh ta để lại trong lòng độc giả chính là niềm tin rằng anh ta sẽ tìm đến với cái thiện, vì vậy anh ta trở nên đáng thương, chứ không phải là đáng trách…” (Nđd)

Nhà văn nữ đầy bản lĩnh này, cũng đưa ra một cái nhìn mới về tương quan giữa văn chương và cô đơn, nghèo, khổ… như sau:

“Tôi cực lực phản đối quan niệm của một số người cho rằng nhà văn là phải cô đơn, phải khổ sở, phải nghèo túng, thì mới viết văn được. Tôi là người phấn đấu hết mình để làm giàu, để trốn cái nghèo và tôi vẫn hết mình với văn chương.

“Tôi chỉ ngồi vào bàn viết khi đầu óc hoàn toàn sảng khoái và minh mẫn chứ không phải buồn rầu, u ám. Phải lãng mạn bay bổng với thế giới câu chữ và sự phức tạp đầy biến động của nhân vật, nhưng tôi vẫn phải có một thế giới thực trên mặt đất…” (Nđd)

Với những ai chỉ theo dõi những cuộc trả lời phỏng vấn của Võ Thị Xuân Hà, mà không tìm đọc truyện của nhà văn này, tôi e nhiều phần họ sẽ nghĩ, thế giới truyện Xuân Hà chắc khô khan, lý trí, khó nuốt… Sự thật, ngược lại.

Thế giới truyện Võ Thị Xuân Hà là thế giới đa tầng. Với hiện thực đời sống, tiểu biểu như truyện ngắn “Lời hẹn”, tác giả viết về một xóm nhỏ“…không có tên, không có tổ dân phố, nằm lọt thỏm giữa thủ đô và nổi tiếng với những vụ hút hít buôn bán ma túy, chứa chất gái mại dâm…”Và, hình ảnh “hai mặt” về một ông già, ngồi xe lăn được tôn vinh:

“Cô nhìn ông già đang được tôn vinh. Ông đáng được tôn vinh với những câu thơ bị người ta lột hết mớ ba mớ bảy để khoác vào linh hồn run rảy tội nghiệp đang khoả thân một tấm blu trắng của chiến dịch kế hoạch hoá gia đình phổ nhạc. Mặc dù vậy anh em chiến hữu vẫn tôn vinh ông nhờ những trường ca sâu thẳm mênh mông đầy bi tráng của cái cõi ông tận hưởng./ Cái cõi ấy xả láng giấc mơ của ông…” (3)

Nhưng ông già thi sĩ nổi tiếng kia, cũng chính là người có chiếc bàn đèn thuốc phiện, bị công an bố ráp, tịch thu trước đó ít năm…! 

Lời hẹn” là kết tầng hiện thực xã hội thứ nhất của cõi giới văn xuôi Võ Thị Xuân Hà, thì “Cành phong hương” lại là kết tầng thứ hai của cái đẹp. Thơ mộng. Cái đẹp của những lá phong ngả màu mà, hương thì lại như những mũi kim vá khâu mùa thu núi cao rách rưới, với những tuyệt vọng khôn khép miệng - - Dù cho những đoạn văn xuôi đẹp chỉ như “những-chiếc-nêm-thơ-mộng” chêm giữa những mảng dung tục đời thường.

Đây là một trích đoạn họ Võ không hề nhắc tới sương mù mà, tôi thấy sương mù như quyện, tỏa từng con chữ:

“(Chị Miêng) đứng như con linh dương cái đến mùa phong hương đỏ lá. Tôi ngước nhìn con linh dương cái ấy, ngưỡng mộ đến vô cùng. Tôi cũng nhìn thấy thằng Lân, hai tay nắm chặt lại như vào thế thủ. Nó đứng cách một đoạn xa, nhìn con linh dương biến ảo, như muốn lao vào cắn xé, lại như muốn quỳ xuống ôm lấy đôi chân dịu dàng mềm mại như nhung kia.

(…)

“Chị Miên vẫn đứng sững bên đường, nơi có vệt bánh xe in hằn cả vết lốp mới. Chị khiến cho tôi và thằng Lân cũng cứ sững lại, mỗi đứa một kiểu, như những cành phong hương tơi tả trong gió đông sắp ùa về trên cái đỉnh đèo Non Cao quanh năm gió xoáy và mây mù…”

Hoặc:

“Không gian vắng vẻ, buồn buồn, làm cho người qua đèo bâng khuâng giữa núi đồi sơn cước phía trước và đồng bằng đang trôi xa phía sau. Vách đá lởm chởm đeo bám những mầm dương sỉ xanh nõn vươn lên tầng không. Phía bên vực, dòng suối chảy uốn lượn làm nghiêng những vạt ngô, vạt chuối bao la...

“Mùa thu về làm rực biếc cánh đồng xa bởi những cơn mưa đêm thấm đẫm. Trên triền núi xa xa, có cô bé tay khư khư bông hoa to, cơn gió nhẹ thổi từ cánh đồng làm cho bông hoa chao như ánh lửa…”

Và vẫn là hình ảnh rất thơ, được Võ Thị Xuân Hà chọn, để ra khỏi câu chuyện tình oan trái nơi núi cao, trong đời thường:

“Nàng đứng bên cây phong hương đã già.

“Mùa đông sắp đến gần, những chiếc lá phong hương đang chuyển mầu đỏ dụ. Từ xa nhìn thấy như những vầng hoa đỏ rực in trên nền trời.

“Thời gian cứ trôi lặng lẽ. Người đàn bà vẫn đứng đợi bên đỉnh dốc.

“Nụ cười phảng phất trên môi nàng...” (4)

Nếu “Lời hẹn” có “‘những-chiếc-nêm-thơ-mộng’ chêm giữa những mảng dung tục đời thường” thì, truyện ngắn “Dưới nước” lại là một kết tầng khác. Một hư ảo. Huyễn hoặc tâm linh. 

Tôi vẫn nghĩ, sông nước không bao giờ là tấm gương chết! Sông nước, tấm gương sinh động này, không chỉ cho ta nhiều diện mạo khác nhau mà, nó còn luân lưu những hình ảnh, tư tưởng của ta, chuyển đổi từng giây phút. 

Sông nước, hiểu theo một nghĩa nào khác, cũng chính là nơi vun quén hình ảnh, tâm tư ta nơi những lượng cát bồi nữa.

Phải chăng vì tính huyễn ảo nhiều diện mạo sông nước luôn cho ta, nên trong truyện “Dưới nước”, nhân vật “người ấy” của Võ thị Xuân Hà là nhân vật vắng mặt? Hiện hữu của “người ấy” là tình yêu? Một tình yêu bất tử. Như chân lý - - Chẳng bao giờ chúng ta có thể sở hữu!!!

Khi quảng trường của truyện ngắn “Dưới nước” vừa mở, “người ấy” (tâm bão?) đã lập tức hiện ra:

Bên cầu Đoạn Hà, tôi nói với ông già Tiểu Ngục: Con cần phải đi khỏi nơi này. Con rất nhớ người ấy”. (5)

Đó là phân đoạn thứ nhất của “Dưới nước” gồm 4 phân-đoạn-huyễn-ảo mà, phân đoạn hai, tuy có phần đời thường, nhưng nó vẫn bị cơn bão huyễn hoặc nhấn chìm.

Ở phân đoạn 1 này, có hai nhân vật chính: Nhân vật xưng “tôi” – ngôi thứ nhất và, ông già tên Tiểu Ngục. Bên cạnh đó là hai “nhân vật” tưởng như phụ là, dòng sông Đoạn Hà và, nhân vật “người ấy”. Nhưng như tên gọi, dòng sông đã tiên báo một điều gì, tựa biền biệt đứt lìa! Khi ông gia Tiểu Ngục nhắc nhở nhân vật xưng tôi rằng, đừng quên, cô đã uống nước sông Đoạn Hà, hiểu theo nghĩa, lúc tái sinh, cô đã không còn ký ức. Và, nhân vật “người ấy” cũng chỉ như một nhắc nhở tuyệt vọng của hoài niệm (phản quang chiếc bóng?) mơ hồ tiền kiếp:

“Tôi nói với ông: Con nhớ người ấy!

“Tiểu Ngục hỏi: Tại sao con cứ mãi nhớ một người như vậy? Con đã uống nước sông Đoạn Hà. Con đã cùng ta chịu thử thách qua bao nhiêu khoảnh khắc của nước trời. Mà con ơi, con đâu có thể nhận ra người ấy, vì con nên nhớ con đã uống nước quên?

“Tôi không thể nói với ông tôi nhớ người ấy như thế nào khi tôi hoàn toàn không còn nhớ anh là ai. Ngay cả gương mặt anh, tôi cũng chỉ còn lờ mờ nhìn thấy qua lớp lớp sương mù. Tôi chỉ có thể cảm thấy và tôi luôn nghĩ rằng anh vẫn còn quanh quất đâu đây, trên thế gian đầy ánh nắng.

“Thế là ông già Tiểu Ngục đành quay về nơi có đặt những súc gỗ. Ông đóng cho tôi một chiếc thuyền nhỏ, đủ để tôi ngồi lên và chèo đi. Nhân lúc chủ thiên ngục không để ý, ông đẩy tôi cùng c”on thuyền ra con nước lớn.

“Tôi hẹn: Con sẽ có ngày trở về.

“Tiểu Ngục cười: Con đã trở về rồi. Con ơi, hãy đi đi. Đừng sợ. Cốt nhất là đừng sợ hãi. Nơi ấy sẽ không chỉ có sương và gió.

“Tôi bặm môi bướng bỉnh: Con nhớ người ấy”. (Nđd). 

Bước qua phân đoạn 2, dù được ông già Tiểu Ngục nhắc nhở: “Con đã uống nước sông Đoạn Hà (…) con đâu có thể nhận ra người ấy, vì con nên nhớ con đã uống nước quên?Nhưng không vì thế mà ký ức của nhân vật xưng “tôi” bị xóa sạch. Lý ức đó vẫn thở những nhịp thở sinh động như sông nước. Như hành trình cuộc sống bập bềnh những bất ngờ huyễn hoặc. Tác giả cho nhân vật xưng “tôi” tham dự đoàn khảo sát địa chất một khúc sông; thu nhặt những cục đá mang về để thử nghiệm…

Nhân dịp này, chuyện tình hư ảo của cô và “người ấy” được vén màn sương phủ:

“... ‘Ngày ấy tôi đi cùng một người con trai. Chúng tôi dạo trên hồ này cũng bằng một chiếc thuyền nhỏ. Anh ấy nom thư sinh nhưng khá mạnh mẽ. Anh ấy đã tự tay điều khiển chiếc thuyền đưa tôi ra giữa hồ’

“ ‘Rồi sao nữa?’

“Người đàn ông hỏi như kiểu người ta đưa tay ra giúp những người yếu ớt băng qua đường cao tốc.

“ ‘Rồi gió và lốc nổi lên. Anh ấy đã cố giữ tay lái. Tôi bám chân vào khoang thuyền để giữ thăng bằng. Nhưng gió mạnh quá, mưa rất to, từng hạt nước như quất vào chúng tôi những chiếc roi khổng lồ. Một con sóng bất ngờ chồm lên. Khi ấy con thuyền nhỏ gần như lộn ngược…’

“Một giọt nước mắt lăn xuống gò má cô, tan đâu mất dưới ván thuyền. Người đàn ông dừng tay vẽ, ngẩng lên:

“ ‘Sau đó thì sao?’

“ ‘Chúng tôi không thể lấy nhau…’

“ ‘Vì sao?’

“Cô im lặng.

“Lát sau cô ngẩng lên nhìn người đàn ông. Chính cô cũng không hiểu tại sao cô lại tin cậy và nói với anh câu chuyện của mình.

“ ‘Anh ấy ngủ dưới nước’ ” (Nđd)

Rồi cô “…bị thuyết phục vì vẻ chân tình của anh. Giọng đàn ông trầm ấm như nhắc nhớ cô những gì thật quen thuộc đã xa lâu lắm. Dần dà cô nhìn người đàn ông một cách tin cậy, như thể cô đang tựa vào anh, và phía sau lưng cô rừng già huyền bí dịu dàng, trên đầu cô trời xanh thăm thẳm như vòng tay níu giữ cô với mặt đất ấm áp. Cô nhíu mày nhíu trán, tự đấm tay vào đầu mình: ta đã gặp anh ấy hồi nào nhỉ?”

Nhưng cuối cùng, trước khi phân đoạn hai khép lại, câu hỏi điếng lòng cùa nhân vật xưng “tôi” lại mở ra:

“Mình vẫn không tìm được người ấy. Vẫn không tìm được!”

Ở phân đoạn 3, tác giả cho thấy sự phân thân của kẻ “ngủ dưới nước” hiện ra như chiếc bóng của tiềm thức - - Hay cuộc tương tranh giữa hồi ức của hồi ức; giữa tồn lưu và, ảo ảnh của hư tưởng:

“Gã kia ỉ lại lão già Tiểu Ngục, cứ im lặng chờ đợi dưới nước khiến tôi không tài nào bước được một bước để gần em hơn. Gã là ai tôi cũng không rõ, giống như cái bóng của em vậy. Cái bóng nằm sâu dưới nước, ngủ cùng nước, và lặng lẽ yêu em. Cái bóng ấy thách thức tôi, và chợt gã cất tiếng cười vang như khúc khải hoàn mừng chúng ta mãi mãi không thể nhận ra nhau, lạc lối trên những con đường rừng, đá tai mèo lởm chởm, rắn độc có thể bập vào chân bất cứ khi nào chúng ta sơ hở, nấm độc có thể phả hơi thở hiểm ác vào màng nhĩ, khiến tai chúng ta ù đặc, trí não chúng ta tê liệt.

“Và tôi đã nhẫn tâm để mặc em vác túi đá nặng trên vai, đi liêu xiêu trong gió.

“Tôi không thể giơ tay ra đỡ.

“Ở nơi đây, dưới nước trời, tôi biết tôi đã để mất em. Kẻ chiếm được tình thương của em nằm dưới kia, trong nước”. (Nđd)

Và, phân đoạn 4, Võ Thị Xuân Hà mở một cửa khác. Cánh cửa cuối cùng của “Dưới nước”dành cho Tình Yêu, một bí nhiệm muôn đời khôn giải thích, - - Như chân lý chấp chới giữa hai mặt của đồng tiền hạnh phúc và bất hạnh: 

“Thời gian của em sắp hết.

“Nước trời rơi rơi trên đầu em từng giọt, từng giọt thảm thiết.

“Nhưng anh ơi, cho dù nước quên đã ngấm vào từng mao mạch và hơi thở của em, cho dù trái tim anh chỉ còn là một khối quặng trơ lì không tan chảy bởi những lời mắng nhiếc của ông già Tiểu Ngục, và bởi tình yêu của em chỉ như gió như sương, cho dù dưới nước kia một người vẫn lặng lẽ chờ đợi sự trở về nồng ấm của em, cho dù em sẽ bước qua dải thiên hà để về bên sông Đoạn Hà, làm cai lệ ngàn năm để rồi ông già Tiểu Ngục lại đóng cho em một con thuyền, em vẫn sẽ đi tìm anh.

“Bởi để quên được anh, em sẽ phải đi qua hết những cuộc đời như cuộc đời này”. (Nđd)

 .

Tóm lại, dù cõi-giới văn xuôi của Võ Thị Xuân Hà ở kết tầng nào, hiện thực, thơ mộng hay huyễn ảo thì, với tôi, mai kia, khi nhìn lại văn chương hôm nay của Võ Thị Xuân Hà, hy vọng người đọc nhận ra những trầm-tích-chữ-nghĩa mà, nhà văn này có được trong đời văn của mình.

Du Tử Lê

(Garden Grove, June 2015)

_________

Chú thích:

(1)Nguồn: Wikipedia – Mở 

(2) Tập truyện “Kẻ đối đầu” của Võ Thị Xuân Hà, được giải thưởng sách hay, Nhà XB Hội Nhà Văn – VN năm 1998. Nđd.

(3), (4), (5): Nguồn Website dutule.com - (Theo Triệu Xuân)

Nguồn:

https://dutule.com/p111a6683/12/vo-thi-xuan-ha-tram-tich-chu-nghia-van-chuong-mot-thoi-

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Tư 201212:00 SA(Xem: 107674)
Sau Chiến Tranh Việt Nam, sự vắng bóng của Hoa Kỳ trong khu vực Đông Nam Á đã để lại một khoảng trống về địa dư chánh trị, và đây cũng chính là vận hội để một Trung Quốc với tham vọng mau chóng lấp đầy. Với sức bành trướng của Trung Quốc từ kinh tế tới quân sự ngày càng đè nặng trên 5 quốc gia trong lưu vực sông Mekong, cộng thêm với những động thái hung hãn của Bắc Kinh nhằm “Tây Tạng Hóa vùng Biển Đông/ Tibetization of South China Sea”, nói theo ngôn từ rất tượng hình của B.A. Hamzak, thuộc Viện Hàng hải Mã Lai / Malaysian Institute of Maritime Affairs, đang trực tiếp đe dọa tới những quyền lợi thiết thân của chính nước Mỹ, đã đến lúc chánh quyền Tổng thống Obama không thể không quan tâm tới sự thách đố của Trung Quốc, một quốc gia đông dân nhất thế giới đang nhanh chóng vươn lên như một siêu cường cả về kinh tế lẫn quân sự.
27 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 101178)
“ B ây giờ tôi mới hiểu: thì ra con người đối với Hồ Chí Minh chẳng là cái gì. Ông mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới, sao vàng năm cánh mộng hồn quanh. Con rồng, ai cũng biết, là biểu tượng của nhà vua. Ông mơ cưỡi nó thì ông đâu phải là một người trong chúng ta.[...] Con người là vốn quý nhất , tôi từng nghe ông nói với mọi người trong lần gặp anh hùng La Văn Cầu ở Thác Dẫng, mùa thu năm 1950. Stalin cũng nói thế. Mao Trạch-đông cũng nói thế.Mà đúng: con người chỉ là vốn thôi, để kinh doanh cái gì đó. Khi là vốn, nó thôi là Người ,” (Vũ Thư Hiên)
26 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 99378)
Á Nam Trần Tuấn Khải sinh năm 1894 tại làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, mất năm 1983 tại Sài Gòn, thọ đúng 90 tuổi ta. Cuộc đời ông trải qua hầu hết những giai đoạn thăng trầm nhất, chứng kiến hầu hết những biến cố quan trọng nhất của lịch sử cận hiện đại Việt Nam. Ông cũng chứng kiến hầu hết những cuộc đổi thay của văn học hiện đại Việt Nam, từ sự ra đi của thơ Cũ đến sự xuất hiện của Phong trào thơ Mới, của Tự lực văn đoàn, đến các trường phái, trào lưu, khuynh hướng, chủ thuyết văn học cả tư bản và cộng sản gần suốt thế kỷ XX.
21 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 91590)
“Đến bây giờ tôi còn thương mấy con ếch báo thức; chúng là những con ếch đầu đàn, ngủ đông trong hang, nấc lên tiếng gọi đầu tiên đánh thức đàn ếch chui ra khỏi hang mà vào cuộc sinh nở với mùa xuân. Nhưng các nhà "tiên tri ếch, kẻ đánh thức đồng loại" dậy đón xuân kia đã bằng tiếng ồm ộp của mình báo rằng: lạy ông tôi ở bụi này. Mấy tay bắt ếch chuyên nghiệp nghe tiếng kêu thức tỉnh đồng loại của dũng tướng ếch cách mạng kia bèn chộp chú liền, cho vào giỏ về thịt; vào giỏ rồi mà chú vẫn uôm uôm! Vẫn báo cho đồng loại dậy mau mà chạy đi, mà vọt xuống ao kịp trốn ... . " (Trần Mạnh Hảo)
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 89986)
T rong đời Nguyễn Du có ba sự việc liên can đến Trung Quốc:Năm  1803 , Nguyễn Du được cử lên  ải Nam Quan tiếp sứ  nhà Thanh sang phong sắc cho vua  Gia Long . Năm  1813 ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm chánh sứ tại  nhà Thanh cho đến  1814 . Năm  1820 Gia Long qua đời,  Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang  nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết...
17 Tháng Mười Một 201112:00 SA(Xem: 108454)
C âu hỏi được đặt ra là tại sao bài Đáp Lời Sông Núi [2] của Trúc Hồ lại có thể vượt không gian và đặc biệt là đường ranh Quốc - Cộng để không riêng được mọi người ưa thích mà còn được hát lên như vậy? Câu hỏi này đã khiến cho những người từng theo dõi sự xuất hiện và phổ biến của những bài hùng ca [...] nhớ tới những bài hát của thời thập niên bốn mươi của thế kỷ trước.
05 Tháng Mười Một 201112:00 SA(Xem: 101766)
S au nhiều năm bị giam cầm và cả 7 năm quản thúc tại gia, lãnh tụ dân chủ đối lập bà Aung San Suu Kyi được thả ra. Ngay sau đó, từ tháng 8 năm 2011, bà đã mạnh dạn lên tiếng kêu gọi phong trào quần chúng hãy bảo vệ con sông Irrawaddy cùng với yêu cầu phải tái lượng giá ảnh hưởng môi sinh...
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89352)
T rần Hoài Thư đến với văn chương rất sớm, sớm hơn truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1965. Và nếu phân chia các giai đoạn văn học miền Nam theo cách của Võ Phiến (xem Văn Học Miền Nam, tập tổng quan, nxb Văn Nghệ, Hoa Kỳ 2000) thì Trần Hoài Thư được xếp vào ( Những Cây Bút Trẻ , theo cách gọi thời đó) giai đoạn 1964-1975 giai đoạn mà chiến cuộc bắt đầu bùng nổ dữ dội.
07 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 98564)
K hi đánh giá về ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tác giả đã đẩy ngôn ngữ bình dân lên ngôn ngữ bác học. Nhận định này đã gián tiếp phân cấp ngôn ngữ ca dao hò vè với ngôn ngữ thơ.
17 Tháng Chín 201112:00 SA(Xem: 96219)
C ái Tôi nội cảm cộng hưởng với cảnh đời riêng, tâm thế sáng tạo riêng đã hình thành kiểu tư duy kỳ lạ của thơ Loạn. Thơ Loạn ra đời dựa trên sự thăng hoa nghệ thuật của những nỗi đau, sự bung phá những giới hạn, sự phân ly và hòa hợp những đối cực, sự hợp lưu của nghệ thuật, tôn giáo và cuộc đời. Thế giới nghệ thuật trường thơ Loạn là ánh xạ đầy biến ảo của những cái Tôi trữ tình đau thương và khát vọng.