- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

SONG TỬ TRÀN ĐẦY NGHỊCH LÝ

23 Tháng Ba 201710:52 CH(Xem: 23886)



NHU QUYNH
Tập thơ SONG TỬ của Như Quỳnh de Prelle 2017

           

 

Đôi nét về tác giả bài viết:

Nguyễn Thị Thanh Lưu, sinh năm 1983, quê quán Vinh, Nghệ An, tiến sĩ ngữ văn

Đã xuất bản: Làm dâu nước Mỹ (2014), Nhật kí Cà Kiu (2015)

Từng làm việc tại Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Hiện đang sống tại Sài Gòn và viết tự do.

 

 

 

Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần. Tôi đọc Song tử của Quỳnh cũng trong cùng đám mây tuyệt vọng đó, với tâm thế của một kẻ mộng du lạc bước vào chốn mơ của một kẻ mộng du khác.

 

Vừa bước vào vườn thơ đã “Vỡ ngực” vì những xúc cảm kì lạ của người thơ, may mắn là trước khi chết ngất trong những dòng thơ úa tàn mệt nhọc, linh hồn tôi được vực dậy bởi những câu từ tha thiết nồng nàn của “Thư viết cho người yêu” trước khi đi loanh quanh mãi không thoát ra khỏi phần kết đậm màu sắc suy tư mang tên “Song Tử và thi ca”. Không rõ có phải là tác giả đã tiên liệu được những gánh nặng xúc cảm mà tập thơ mang tới cho độc giả hay không mà kết cấu tập thơ đầy dụng ý thế kia?

 

Cũng chính cách kết cấu bất thình lình với những khúc quanh hiểm hóc đó mà tôi xin thú nhận là tôi đọc mãi tập thơ suốt mấy tháng trời nhưng vẫn cảm thấy mình chỉ là một người đi lạc chưa tìm thấy lối ra. Thơ Như Quỳnh de Prelle không phải là thứ thơ êm ái, dễ dãi, đọc trôi tuồn tuột. Trái lại, nó tràn đầy nghịch lí: nghịch lí cảm xúc, nghịch lí ngôn từ, nghịch lí ngắt dòng, nghịch lí cấu trúc. Người đọc hoang mang vấp váp chính mình trong những chuỗi nghịch lí hiển nhiên phô phang ấy mà không khỏi hoài nghi về một sự sắp đặt quá tinh vi của người viết. Cứ vấp lại phải quay lại, đọc cho vỡ từng chữ. Những cú vấp trong vườn thơ âm u của Quỳnh khiến độc giả không thể cứ thế mà khoan thai dạo bước. Mỗi bước đi trong vườn thơ của Quỳnh là một dò dẫm, đòi hỏi suy tư cật lực, tiêu rút xúc cảm đến kiệt cùng. Nhà thơ Charles Simic quả không sai khi cho rằng: “Nghịch lý là gia vị bí mật của thơ. Không có vô số điều mâu thuẫn và ngạo mạn, thơ sẽ nhạt nhẽo như bài giảng ngày Chủ nhật hay bài phát biểu thông điệp liên bang của tổng thống”. Quỳnh - với sự nhạy cảm hồn nhiên của một người mới đến với thơ, dường như đã bắt nắm được thứ gia vị đặc trưng đó của thơ để viết ra những dòng lãng đãng thơ mà như không thơ, những rủ rỉ tâm tình ngăn ngắt hoang mang và yêu đương khờ dại cuộc đời.

 

trong cái lạnh lẽo của mùa hè tháng 7 

nàng bước ra dưới cái nắng hiếm hoi của xứ sở ôn đới hiền hoà 

để làm cháy đi làn da châu á 

để cạo hết nỗi buồn trên gương mặt, trên cơ thể, trên tóc và răng của nàng 

mọi bộ phận đang chết lâm sàng và lặng yên lặng yên 

như đang chờ một kết quả cho một hy vọng mong manh 

mong manh 

(Nắng không thể cạo hết nỗi buồn của nàng)

 

Động từ “cạo” khiến tôi rùng mình y như cái rùng mình dưới cơn nắng lạnh phi lí của mùa hè trong thơ. Cũng thế, tôi rùng mình vì nỗi buồn thảm thiết của “nàng”. Nếu đã lỡ dấn bước vào khu vườn bí ẩn Quỳnh thơ, bạn sẽ thấy rùng mình là cảm giác thường trực.

 

Đọc thơ Quỳnh không phải để vui, để say sưa rồi quên như quên một cảm xúc hời hợt bột phát nào đó bởi thơ Quỳnh khiến người ta mệt lử vì nỗi buồn và niềm tuyệt vọng.

 

Những cơn thở dài không phải yếm thế

nỗi buồn lặn sâu cào xới những rạn nứt

sự tù tội của tinh thần

nghèo nàn của những tâm hồn cứ như thơ ca

mà thì ra như những kẻ chết tiệt, bệnh hoạn

 

Những cơn thở dài bao lâu có một lần

lòng người như gió cuốn cuốn đi vì lòng người quá mỏng mà thôi

gió chả vô tình vô ý

đâu đủ đậm sâu giữ lại cho riêng ai

ban phát tung toé giả vờ yêu đương

như những kẻ điên trên những đôi mắt kính khác màu

đầy hiểu biết và thông dụng

giàu có và hơn người

toan tính quẩn quanh

triệt tiêu cái này để có cái kia

 

Ôi những cơn thở dài chết tiệt

nó làm cho một ngày cúi xuống tận đáy mồ sâu

tự chôn mình, chôn cả linh thiêng, tận hiến

 

chôn cả trái tim và bộ óc đủ đầy lý trí thị phi

chôn đôi bàn tay viết lách trên những con chữ vô nghĩa và tình yêu trở thành phù phiếm

 

làm gì có tình yêu

cơ hội và luôn là cơ hội

của những kẻ săn mồi

(Một buổi chiều mùa hè)

 

“Buổi chiều mùa hè” trong thơ Quỳnh mới ngột ngạt làm sao giữa đông đặc những động từ mạnh và những tính từ tàn úa. Trong sự cùng quẫn của cảm xúc tiêu cực, nhân vật trữ tình đã để tiếng thở dài đào mồ chôn chính trái tim và tình yêu của mình. Giữa mùa hè, mùa của sinh sôi, nấm mồ tinh thần ấy đột nhiên trở nên phi lí hết sức. Thế là, người đọc đã bị đánh lừa ngay từ cái tiêu đề dịu dàng của bài thơ.

 

Cũng thế, dù chưa từng có duyên gặp mặt người thơ, tôi đồ rằng, vẻ mong manh của Quỳnh chẳng mảy may giống những câu thơ buốt chật linh hồn mà Quỳnh viết. Thơ Quỳnh trong nỗi tuyệt vọng quá đỗi đàn bà không ít lần khiến ta rã rời thân xác vì những ý niệm cuồng loạn, vì những cảm xúc thiêu đốt tận đáy sâu tâm can.

 

Những tình yêu mồ côi

sinh ra những tinh thần mồ côi vĩnh viễn

Những bài thơ ra đời

sự sinh sản vô tính của một nhà thơ nữ hoặc một nhà thơ nam

giao hợp bằng tinh thần khuyết tật đầy khát khao

 

hoặc những bài thơ sự sinh sản hữu tính khác

sự kết hợp tình yêu trong những đau khổ muộn màng đầy khắc khoải

tình yêu thiêu huỷ thế giới này

trước chữ nghĩa tình yêu trở nên giới hạn và vô vọng

không thể giãi bày sẻ chia

 

sự sinh sản hữu tính trở thành vô tính

tầm thường

sự vô tính trở thành nhịp điệu thường hằng như một thú mode thể hiện sự thành công mạnh mẽ phi thường

 

tình yêu thiêu huỷ

làm cho nát tan không hàn gắn

giữa 2 con người

một người đợi và cho

một người phí phạm vứt đi và không chờ nữa

 

họ không đối thoại với nhau

họ triệt tiêu nhau bằng im lặng phép lịch sự tinh thần của thế giới vô ngôn tưởng là thiền và có học đầy hiểu biết

 

họ im lặng giết nhau bằng thứ bao lực không âm thanh không giai điệu họ trốn tìm nhau như những con thú ác

 

tình yêu thiêu huỷ loài người

thiêu huỷ bản năng tự nhiên và cái Đẹp

trở thành mù loà

dang dở

ngay cả khi trên những đôi mắt kính lấp lánh niềm vui

tràn đầy thi ca

 

những bài thơ tràn đầy tuyệt vọng âm u

trượt ngã từ ngay chính từ tác giả

từ bạn đọc

không ai còn tin nhau

trao cho nhau nữa

họ cố thủ trong cái tôi định kiến

sự hẹp hòi đầy tăm tối

 

những cái hang không còn ánh sáng xuyên qua

những buổi hoà nhạc chỉ là một giấc mơ ở phía Tây bên kia đại dương

ở nơi nào đó, những con người đó, vĩnh hằng cô đơn như sự lựa chọn không thể khác của chính họ, của những cái Tôi không thể trở thành Trách nhiệm trưởng thành

 

có bao nhiêu cái hang, có bao nhiêu đời sống trong hang tối và không chịu thoát ra khỏi đó

 

nỗi buồn thời này chất chứa từ bao đời, từ quá khứ, từ hiện tại và tương lai chỉ là hy vọng hão huyền cho sự ảo tưởng khốn cùng

 

và vẫn phải tiếp tục

tiếp tục

 

sự sinh sản vô tính, hữu tính, ảo tưởng

cái chết và sự sống

như anh và em

một cuộc tình thi ca dở dang

những bài thơ mồ côi

sự sáng tạo mồ côi

sự chia sẻ mồ côi

cả những bạn đọc mồ côi

tuyệt vọng đến bao giờ

(Tình yêu thời này)

 

Nếu tình yêu là một thực thể, tôi tin là nó sẽ ngã quị ngay trước những dòng chữ kết tội sầu muộn bế tắc này. Quỳnh đã không còn tin vào tình yêu, không còn tin cả vào chữ nghĩa thi ca. Nỗi tuyệt vọng cùng cực đã đẩy Quỳnh đến những liên nối nặng nề giữa tình yêu, sự sáng tạo, nhà thơ và độc giả.

 

Nhưng may thay, giữa những tứ thơ siêu thực điên rồ, thơ Quỳnh vẫn còn những câu đẫm vẻ dịu dàng đời thường thế này:

lần đầu tiên nàng khóc trước đêm giao thừa

hoa thuỷ tiên trên bàn gỗ đã tàn

không nở vào lúc ấy

nước mắt của người đàn bà ngoài 30

như một đứa trẻ

nhớ nhà

 

lần đầu tiên nàng nhận ra

dòng máu An Nam của nàng đã cạn khô và tái sinh

như lúc này

nó chảy ra trong não của nàng

và tình yêu ấy quá bền lâu

khiến nàng thêm dằn vặt

khổ đau

 

chưa bao giờ nàng khóc những ngày giáp Tết

cả khi nỗi cô độc thanh xuân giữa thành phố hơn 6 triệu dân

nàng thanh thản mỉm cười

thế mà lúc này nàng khóc

giữa mùa đông Châu âu

 

nước mắt như một bông hoa héo

rơi xuống

lặng im

nước mắt rửa khô và hàn gắn

tình yêu tưởng như tan biến

tưởng như nát tan

giấu chặt

 (Giao thừa 16)

 

Những câu thơ khắc khoải tuyệt vọng sầu u thế này chỉ có thể là những câu thơ được viết ra bởi một người đàn bà say đắm.

 

em chả thể nào khóc được như thế

mà trong lòng đầy nước mắt héo khô

ước được là chim sải cánh dài vượt đại dương tìm anh

đậu trên vai anh

rồi biến mất

chạm vào tim anh

rồi chết đi

(Đi về phía biển)

 

Song tử có ba phần nhưng đọc phần nào, tôi cũng đều nhận ra nỗi khắc khoải của người viết trong mối liên hệ qua lại giữa tình yêu và thi ca, giữa chữ và người.

chữ làm tình làm tội

những tham vọng

thèm muốn

ngoài khả năng

chữ rửa tội

đôi tình nhân

tình tứ

trên bàn phím

trên những email

rửa tội những linh hồn

thoát xác

 

mỗi ngày chữ sinh ra

bao nhiêu luyến ái

bao nhiêu oán thù

ngày mai

chữ đi đâu

về đâu

cùng cái chết

chữ rửa tội

cho những tội đồ

vụng dại yêu đương

nhẹ dạ

tin chữ

hơn tin người

tin đời

 

chữ xưng tội

với người

trong hư vô

chữ nhìn thấy sự phản bội

ẩn náu tương sinh

trong hàm tương khắc

sinh khắc trong chữ như nhau

chữ biết tất cả bí mật

sự vô thức

cái chết ngập tràn

sự sống trong phút giây

vụt tắt

không tương lai gần xa

 

chữ như thân phận

như tình người

chung thuỷ

bạc bẽo

xa xôi

gần gũi

nát tan

 

còn chữ

còn tình

hết chữ

hết tình

hư vô

thương chữ

thương tình

 

tình đa đoan tình dang dở

thương người thương chữ thương tình tình thương

(Tình chữ)

 

Xuyên suốt tập thơ Song tử của Như Quỳnh de Prelle là bầu không gian của linh hồn với những ý nghĩ vốn ẩn nấp nhưng bị đào xới lên không thương tiếc. Chính vì cái không gian vừa mở vô biên vừa bó kín ấy mà thơ Quỳnh vẫn là khu vườn bí mật. Dường như Quỳnh, trong một nỗ lực bất thành hoặc một sự cố tình sắp đặt đã cố gắng dẫn thơ về quỹ đạo thường hằng của vũ trụ bằng những nhấn mạnh về mặt thời gian. Ngay phần đầu tiên, tập thơ có hẳn một chùm thơ nối nhau, mỗi bài viết cho một tháng (Chào tháng 3 và những cái chết trong tưởng tượng, Nỗi buồn tháng 4,  Tuyệt vọng tháng 5,  Thư tháng 6,  Niệm sinh tháng 7). Nhân vật thời gian xuất hiện khá thường xuyên trong tập thơ (mùa, ngày, tháng), như một níu kéo, một neo đậu để mọi ý nghĩ xa xôi đến mấy cũng còn chỗ quay về.

 

Vẫn trong đám mây mù ý niệm, tôi đọc thơ Quỳnh và cố gắng hiểu vì sao Quỳnh đặt độc giả vào những trạng huống tinh thần khác thường ở những thời điểm, thời đoạn tưởng như bình thường nhất. Ngoài chuyện cố tính gây hiệu ứng xung động mạnh cho độc giả bằng thứ gia vị nghịch lí, tôi vẫn cho là còn có lí do nào đó khác mang màu sắc cá nhân của người viết. Liệu có phải rằng, Quỳnh đang tự sự về mình, giữa một cuộc đời ấm êm, giữa những giây phút thanh bình nhất của đời thường, cô vẫn luôn tìm thấy điều gì đó nhói buốt tâm can khi tự đào sâu vào nội tâm của chính mình. Dường như, nội tâm cô vẫn luôn quẫy đạp đòi hỏi được sống kiệt cùng.

 

Tôi đoan chắc cũng chính vì tinh thần tự bứt phá và giải phóng ấy mà Quỳnh chọn lối thơ tự do, với cách ngắt dòng bất qui tắc, với nhịp thơ phóng túng. Đáng kể là tập thơ có sự góp mặt của thơ văn xuôi, với lối kết hợp ngẫu hứng của việc kể và việc tỏ bày trong hình hài của một tự sự thơ.

 

Nàng cắt từng ngọn cây non trên hàng rào xanh như ngọc của mùa xuân đang hết dần

từng ngọn từng ngọn một, từ cao đến thấp, từ xanh già đến xanh non

cho thật bằng nhau cân đối của khuôn hình hàng rào như một bon sai sắp đặt

sự tỉ mỉ của việc làm vườn cho nàng ngưng lại những ý nghĩ điên loạn trong thoáng chốc

rồi nó lại bừng lên rạng rỡ sự sáng tạo không ngừng nghỉ trong 2 bán cầu não của nàng và 2 trái tim bập bùng như lửa

cắt cây trong vườn tỉ mỉ tỉ mỉ làm nàng nhớ có những lúc nàng cần điềm nhiên như thế này khỏi cơn nhớ anh nhớ thời gian xa cách bằng một buổi sáng

dù có lúc nàng diễn dịch sai hoàn toàn thiện chí của người đàn ông mà nàng đang yêu

và không thể chính xác như từng ngọn cây bị cắt thật bằng phẳng của đôi bàn tay dài trơ xương của nàng

nàng thích vườn, cây cối, hoa và cỏ. có lúc nàng lười biếng nằm nghe tiếng chim liến thoắng cùng tiếng gió đung đưa cùng nắng và mặt trời trong đôi mắt kính màu nâu sẫm. tiếng máy bay trực thăng ầm ầm ngay trên đầu.

nàng sợ ánh sáng tự nhiên chói loà như hào quang lấp lánh của sân khấu của các nhà hát, của những cuộc gặp gỡ, hò reo.

nàng chui mình vào một lỗ cây mận đang trĩu quả bị sâu cùng với cành hoa lys gẫy, nằm nguyên đó cảbuổi chiều thanh vắng, tiếng chuông nhà thờ ngoài phố vang vọng chả khiến nàng ngân lên chút cầu nguyện nào.

nàng chôn cả mùa hè xanh như ngọc vào những buổi chiều ngoài vườn.

(Làm vườn 1)

 

Như Quỳnh de Prelle, có lẽ cũng đồng điệu với Charles Simic – nhà thơ người Mỹ khi coi những bài thơ văn xuôi là “kết quả của việc cố gắng thoát khỏi bản thân”, là “sự do khỏi trí tưởng tượng và bộ não của chính mình, dấn thân vào cuộc phiêu lưu với những hệ quả không thể lường trước”. Tuy nhiên, thơ văn xuôi của Quỳnh chưa phải là “đứa con quái đản của hai chiến lược không tương thích, trữ tình và tự sự” bởi trong những câu chữ mềm mại du dương được cố tình kéo dài trên đây, tôi vẫn nhận ra một thứ nhịp điệu của cảm xúc khiến phần thơ vẫn là phần dẫn dắt.

Dù đã đọc đi đọc lại tập thơ không biết bao nhiêu lần, tôi vẫn luôn cảm thấy bị bao vây khi cố gắng đột nhập thế giới của riêng Quỳnh bởi thứ chữ lắm khi cố tình giấu nghĩa nhưng lại tuôn bất cẩn không dè chừng không lấp liếm, không giấu che. Mỗi bài thơ hãy còn là một thử thách với riêng tôi. Tập thơ dù đã được tôi đọc ròng rã mấy tháng trời vẫn còn niêm giữ vẻ bí ẩn khó đoán của nó. Bởi thế, tôi không cho là mấy dòng cảm nhận đơn giản tôi được hân hạnh viết ra đây ảnh hưởng gì tới việc thưởng thơ của bạn. Nếu yêu thơ, xin mời nhập cuộc. Có điều này, tôi phải nhắc: thơ Như Quỳnh de Prelle không dành cho những người yếu tim.

 

NGUYỄN THỊ THANH LƯU       
Sài Gòn, 28/11/2016

 

 

       

 

Ý kiến bạn đọc
26 Tháng Ba 20171:11 SA
Khách
Một sự đột phá
vừa lạ lẫm
vừa mới mẻ....
nhưng, rất quyến rũ
tuy... chút e dè
chút cởi mở
vì...muốn khám phá
vẻ bao la
vẻ mượt mà...
của thế giới chữ
mà chữ thì ...
mênh mông...
rất mênh mông...
chưa một lần dừng
cho ai đã từng...
thích ...rồi dấn thân
và cứ thế
đắm say
say đắm...
nhìn ngày bảo đêm
xoáy vào đời
suy nghĩ
...chả giống ai !
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
12 Tháng Chín 202312:43 SA(Xem: 5768)
Hai câu trên nằm trong bài thơ mang tên “Lễ Phục Sinh 1916” của William Butler Yeats. Bài thơ nhằm tưởng nhớ tới những người đã ngã xuống cho tự do và độc lập của Ireland. Cuộc hành quyết đẫm máu các thủ lĩnh cách mạng sau cuộc trỗi dậy vào ngày lễ phục sinh đã đánh thức cả một thế hệ Ireland. Cuối cùng, nhân dân Ireland cũng dành được độc lập vào năm 1949 và bài thơ của Yeats được cho là một trong những bài thơ chính trị hay nhất của thế kỷ 20 trong lịch sử văn học nước Anh.
04 Tháng Chín 20238:30 CH(Xem: 5322)
Trong ngót hai chục phim truyện điện ảnh tham dự tranh Giải Cánh Diều năm nay của Hội Điện ảnh VN, có thể nói “Em & Trịnh” là một tác phẩm hoành tráng bậc nhất. Và cũng cần phải thẳng thắn điều này: những người làm “Em & Trịnh” đã rơi vào cả hai tình huống đặc biệt của Điện ảnh: a. thực hiện một bộ phim chân dung vốn đầy thử thách, b. đặc biệt là phim ca nhạc sẽ cực kỳ khó khăn về các yếu tố kỹ thuật!
10 Tháng Bảy 20231:55 CH(Xem: 6323)
PHỤ NỮ GIỮA CHIẾN TRANH VIỆT NAM: THỜI ĐIỂM 1969 Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình [Visions of War, Dreams of Peace] [1] là nhan đề một tuyển tập thơ của các nhà thơ nữ; nếu là Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, họ đã là những nữ quân nhân như y tá, bác sĩ đã từng chăm sóc các thương bệnh binh; nếu ở những ngành nghề khác, họ đảm trách các dịch vụ không tác chiến như chuyên viên truyền tin, tiếp vận, kiểm soát không lưu, nhân viên Hồng Thập Tự... Nếu là người Việt, họ là những phụ nữ thuộc hai miền Nam hay Bắc, với những trải nghiệm khác nhau, qua những năm tháng chiến tranh. Và như từ bao giờ, cho dù ở đâu, phụ nữ và trẻ em vẫn là thành phần dễ bị tổn thương nhất trong chiến tranh. Trong tập thơ này, có 34 nhà thơ nữ Hoa Kỳ, và sáu nhà thơ nữ Việt Nam: Xuân Quỳnh (My Son’s Childhood), Hương Tràm (The Vietnamese Mother), Hà Phương (To An Phu, From This Distance I Talk To You), Trần Mộng Tú (The Gift In Wartime, Dream of Peace), Minh Đức Hoài Trinh..., Nguyễn Ngọc Xuân...
09 Tháng Sáu 20234:36 CH(Xem: 5968)
T. cận tôi trai Hà Nội, song có dịp được đi & sống ở nhiều vùng đất trở thành thân quen, rồi yêu quý - và một trong những vùng đất đó là Bình Định. Một sinh viên của tôi làm phim tốt nghiệp về “Võ Bình Định”, tôi rất vui, bảo: “Thầy mới chỉ biết đôi chút về Trời văn Bình Định thôi, phim của em giúp thầy và nhiều người hiểu thêm về Đất Võ Bình Định đáng tự hào”… Mấy Hội thảo Khoa học về cụ Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu - người thầy của Đào Tấn vĩ đại, về Tổng đốc Lê Đại Cang, may được ông Tổng BT tạp chí Văn Hiến Nguyễn Thế Khoa chiếu cố mời về cùng với tham luận và làm phim nên càng có dịp thâm nhập sâu hơn vào kho tàng văn hóa Bình Định. Một dạo, có lớp tập huấn về Biến đổi khí hậu do Thái Lan và Diễn đàn “Nhà báo Môi trường” tổ chức tại Quy Nhơn, được mời tham dự và làm phim cho họ, tôi có điều kiện hiểu thêm về giá trị của Môi trường “xứ Nẫu” nói riêng và Biển miền trung Trung bộ nói chung…
24 Tháng Năm 20234:02 CH(Xem: 5948)
Trong số những nhà thơ lớn Việt Nam các thời Cổ - Trung - Cận đại, tình cảm đặc biệt nhất của tôi với tư cách một người làm phim truyện, là dành cho Thi sĩ-Nhà giáo-Thầy thuốc Nguyễn Đình Chiểu. Bởi theo tôi, giá trị lớn nhất, sức hấp dẫn kỳ lạ nhất trong văn chương Nguyễn Đình Chiểu, chính là trái tim thương cảm của ông đối với Dân, đối với những nghĩa sĩ đã xả thân cho Tổ quốc, và đặc biệt với phụ nữ, trẻ em - những nhóm người yếu thế nhất trong xã hội, nạn nhân đầu tiên của chiến tranh, loạn lạc…
21 Tháng Ba 20235:16 CH(Xem: 5204)
Chẳng thể cứ tự hào Việt Nam nay là đất nước phát triển nếu như dân cư của cả nước vẫn phải sống với nguồn nước bẩn và một môi trường đầy ô nhiễm. “Không có kỹ nghệ không gian các quốc gia vẫn sống được, nhưng không thể sống nếu không có nước.” Oded Distel [chuyên gia về nước của Do Thái] Đề nghị chọn Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 là Ngày Nước Việt Nam / Vietnam Water Day. [Nhóm Bạn Cửu Long]
26 Tháng Hai 20238:39 CH(Xem: 6087)
Mai An Nguyễn Anh Tuấn Ủng hộ lời kêu cứu cho Đồng Bằng Sông Cửu Long của nhà khoa học Ngô Thế Vinh trên vanviet.info và bauxitevn.net
13 Tháng Hai 202312:43 SA(Xem: 6184)
順天者存,逆天者亡 Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong Thuận với thiên nhiên thì còn. Nghịch với thiên nhiên thì mất. [Mạnh Tử] “Kế hoạch phát triển nào cũng phải tính tới cái giá môi sinh phải trả – environmental costs – đối với sức khoẻ của người dân và cả trên nguồn tài nguyên lâu dài của đất nước.” Ngô Thế Vinh
06 Tháng Giêng 202312:11 SA(Xem: 5820)
Nguyễn Du chỉ thốt lên một lần duy nhất: Ta vốn có tính yêu núi khi ông Bắc hành, ở đoạn cuối sứ trình; nhưng cái tính đó, ông đã bộc lộ biết bao lần trong 254 bài qua cả ba tập thơ chữ Hán của mình! Ai ham đọc sách mà không biết câu nói có tự cổ xưa: Trí giả lạc thủy, nhân giả lạc sơn (Kẻ trí thì vui với sông nước, người nhân thì vui với núi non); song cái ý tưởng sách vở thể hiện khát vọng thoát tục thanh cao, mơ ước được tựa vào non xanh để tìm sự yên tĩnh vĩnh hằng của nội tâm đó đã được Nguyễn Du trải nghiệm bằng toàn bộ cảm giác buồn, vui, qua các đoạn đời phong trần của mình, và ông miêu tả chúng qua bao vần thơ chữ Hán thực thấm thía, rung động.
14 Tháng Mười 202211:28 CH(Xem: 6983)
Năm 2020, đã có một lúc bao nhiêu triệu cư dân vùng hạ lưu sông Mekong thở phào nhẹ nhõm khi nghe tin Bộ Điện Lực Cam Bốt tuyên bố hoãn mọi dự án thuỷ điện trên sông Mekong trong 10 năm tới [1], như vậy là ít nhất có một thời kỳ dưỡng thương cho dòng sông bị đầy những vết cắt do chuỗi đập thuỷ điện của Trung Quốc và Lào phía thượng nguồn. Nhưng rồi mới đây, chỉ hai năm sau, 2022, là một tin chấn động khác: Phnom Penh tuyên bố cho tái phục hoạt / resurrection dự án thủy điện Stung Treng 1.400 MW trên dòng chính sông Mekong phía đông bắc Cam Bốt sát ranh giới với Lào. Dự án này không chỉ sẽ tàn phá sinh cảnh các khu đất ngập được bảo vệ bởi Công ước Ramsar ký kết từ năm 1971, mà còn gây tác hại vô lường trên hai vùng châu thổ phì nhiêu Tonlé Sap và ĐBSCL. Đây là bài đầu tiên trong loạt 3 bài viết nhìn lại toàn cảnh cuộc hành trình gian truân của một dòng sông – Sông Mekong hơn nửa thế kỷ qua.