- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Hai Cực Của Sự Huỷ Hoại Từ Nuozhadu Tới Don Sahong Sông Mekong Trước Nguy Cơ

20 Tháng Chín 20145:29 SA(Xem: 31339)

 

“Trái tim, tâm hồn và trí tuệ của tôi, tất cả đều tập trung để làm sao ngăn chặn những toan tính điên dại đang diễn ra trên Sông Mekong.” Tom Fawthrop, nhà báo Anh, đạo diễn phim Killing the Mekong Dam by Dam. 

 

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

Ngô Thế Vinh

 

 

ẢNH HƯỞNG DÂY CHUYỀN TỪ NHỮNG CON ĐẬP

 

Với 14 con đập Bậc Thềm Vân Nam và 12 con đập Hạ lưu, tổng số 26 con đập dòng chính trên suốt chiều dài hơn 4,800 km sông Mekong, với thời gian là những hậu quả huỷ hoại tích lũy không thể đảo nghịch từ những khúc sông nghẽn mạch, và ảnh hưởng dây chuyền của chuỗi các con đập ấy bao gồm:

1/ Biến đổi bản chất tự nhiên của con sông, và dòng sông sẽ không còn giữ được “nhịp đập / flood pulse” theo mùa, cũng là yếu tố sinh tử của Biển Hồ như trái tim của hệ sinh thái Sông Mekong và Đồng Bằng Sông Cửu Long. 

2/ Biến đổi dòng chảy sẽ ảnh hưởng tới nguồn cá và an toàn lương thực: thu hẹp diện tích các vùng đất ngập / wetland areas và hủy hoại sinh cảnh thiết yếu của các loài cá sông Mekong.

3/ Dòng sông biến dạng đe dọa tính đa dạng của hệ thủy sinh trong đó có các chủng loại quan trọng / flagships species biểu tượng cho sự lành mạnh hệ sinh thái sông Mekong như cá Irrawaddy Dolphin, cá Pla Beuk đang có nguy cơ bị tuyệt chủng.

4/ Các khu rừng hạ lưu sông Mekong được công nhận là Vùng Đa dạng Sinh thái Chủ yếu / key biodiversity zones với các Vùng Đất Ngập được bảo vệ theo Quy ước Ramsar. Những con đập sẽ nhận chìm các vùng đất ngập và gây ảnh hưởng trên hệ sinh thái động vật và thực vật / fauna and flora của toàn lưu vực.

5/ Nông nghiệp bị tổn thất do phần đất bị ngập lụt từ các con đập, mất nguồn thực phẩm do canh tác ven sông, và do lượng phù sa từ thượng nguồn vì bị giữ lại trong các hồ chứa sẽ ảnh hưởng tới tiến trình chuyển tải các dưỡng chất thiết yếu cho ruộng vườn như phốt phát và đạm chất / nitrogen tưới bón cho các dẻo đất ven sông và nhất là các vùng châu thổ (Tonle Sap Cam Bốt, ĐBSCL Việt Nam).

6/ Giảm lượng phù sa cũng có nghĩa là làm mất cân bằng dòng chảy, gây sạt lở các bờ sông và mũi Cà Mau thì đang bị cắt lẹm mỗi năm và trôi dần ra biển. Lưu lượng dòng chảy giảm do những hồ chứa, mực nước biển dâng do thay đổi khí hậu và hậu quả là nạn nhiễm mặn càng ngày càng lấn sâu và tiến xa vào vùng châu thổ. Không có giống lúa và vườn cây trái nào có thể sống còn trên những thửa đất muối mặn. 

Witoon Permpongsachareon, chủ tịch nhóm bảo vệ môi sinh TERRA, có văn phòng ở Bangkok phát biểu: “Những con đập là mối đe doạ lớn nhất đối với con sông Mekong và sự trong lành của môi sinh. Xây một con đập thì cũng giống như kẹp một động mạch trên một cơ thể khoẻ mạnh. Nếu máu không lưu thông chắc chắn cơ thể ấy bị tổn hại.” [Strangling the Mekong. Ron Moreau, Richard Ernsberger Jr. Newsweek International, March 19, 2011]

 

HAI CỰC CỦA SỰ HUỶ HOẠI

Trong số 26 con đập dòng chính Sông Mekong, thì Noạ Trát Độ / Nuozhadu 5,850 MW trên Vân Nam là con đập lớn nhất, và Don Sahong 260 MW là con đập nhỏ và quan trọng nhất thuộc địa phận Nam Lào (không kể tới  Thakho Diversion, cũng của Lào, 50 MW được bảo trở bởi CNR & EDL). Bài viết là một phân tích về hai thái cực của sự huỷ hoại: từ con đập lớn nhất tới con đập nhỏ nhất trên toàn hệ sinh thái Sông Mekong.

 

NUOZHADU CON ĐẬP LỚN NHẤT

Chỉ đứng thứ hai sau con đập Tam Hợp / Three Gorges Dam lớn nhất thế giới trên Sông Dương Tử, Nọa Trát Độ / Nuozhadu là một con Khủng long trên Sông Mekong. Con đập được khởi công từ 2006, phải giải tỏa 24,000 cư dân ra khỏi khu xây đập. Hồ chứa của con đập Nọa Trát Độ, có chiều dài 226 km, diện tích mặt hồ chứa 320 km2 (gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore 716 km2) với dung lượng lên tới 22 tỉ m3, (Tiểu Loan / Xiaowan 15 tỉ m3); 30 lần lớn hơn hồ chứa con đập Tokuyama là đập thủy điện lớn nhất của Nhật Bản, với 9 đơn vị phát điện đã hoàn tất vào năm 2014, với tổng công xuất lên tới 5,850 MW, tương đương với hơn 5 lò máy nguyên tử lớn / 5 large nuclear reactors. [Chinese dam projects raise alarm in Asia_ theo Asahi Shimbun, 16/08/2010]

Nọa Trát Độ [261.5 m] tuy không cao nhất thế giới như đập Tiểu Loan [293 m] nhưng lại là “con đập lớn nhất” trên dòng chính sông Mekong. Theo Fred Pearce, sau đập Tiểu Loan, và con đập Nọa Trát Độ hoàn tất, sông Mekong sẽ trở thành tháp nước và nhà máy điện của Trung Quốc. (Damming the Mekong: Major blow to an Epic River, Yale Environment 360, 22 June 2009) [Hình I & II]

Hiroshi Hori là một chuyên gia Nhật, làm việc cho Liên Hiệp Quốc trong Ủy Ban Sông Mekong, tác giả cuốn sách “The Mekong: Environment and Development”, đã nhận định: “Lưu Vực Trên của sông Mekong là vùng động đất, với những chuyển động địa chấn đáng kể khiến người ta có lý do để sợ rằng động đất sẽ xảy ra khi xây những con đập.” (2) Chính các học giả và chuyên gia môi sinh Trung Quốc cũng đã lên tiếng báo động về nguy cơ vỡ đập này. (3)

Không có gì bảo đảm rằng một thảm họa như vậy sẽ không thể xảy ra trên sông Mekong. Nếu con sông Mekong là mạch sống của ngót 70 triệu cư dân sống trong lưu vực thì mỗi con đập dòng chính là một gót chân Achilles cho toàn vùng. Và hiển nhiên là thảm họa do con người gây ra sẽ lớn hơn gấp bội so với tai ương từ thiên nhiên... 

Nhận định chung về kế hoạch khai thác sông Mekong của Trung Quốc, Tyson Roberts thuộc Viện Nghiên Cứu Nhiệt đới Smithsonian (Mỹ) đã phát biểu: “Xây các đập thuỷ điện, khai thông thuỷ lộ, với tàu bè thương mại quá tải sẽ giết chết dòng sông… Các bước khai thác của Trung Quốc làm suy thoái hệ sinh thái, gây ô nhiễm tệ hại, khiến con sông Mekong đang chết dần, cũng giống như con sông Dương Tử và các con sông lớn khác của Trung Quốc.” (6)

HAI CUC 1-ntv

Hình I _ Đập Thuỷ điện Noạ Trát Độ lớn nhất trên Sông Mekong: Hàng chữ đỏ bên trái: “Hoa Năng Nọa Trát Độ thủy điện trạm” [Trạm thủy điện Nọa Trát Độ của công ti Hoa Năng / Huaneng Power International, Ltd.”]; Hàng chữ trắng bên phải: “Năng nguyên vu thủy -- Hữu dung nãi đại” [Khả năng bắt nguồn từ nước -- Có sức chứa sẽ thành lớn]. (Nguồn: Ying Qiu, International Rivers)

 

HAI CUC 2-ntv

Hình II _ Hồ chứa Đập Thuỷ điện Noạ Trát Độ lớn nhất trên Sông Mekong chiều dài 226 km, diện tích mặt hồ 320 km2 (gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore 716 km2) với dung lượng lên tới 22 tỉ m3 nước. (Nguồn: Ying Qiu, International Rivers)

 

 

DON SAHONG CON ĐẬP NHỎ NHẤT

Cách đây gần một năm, ngày 3 tháng 10, 2013, chính phủ Lào thông báo cho Uỷ Hội Sông Mekong / MRC về quyết định xây con đập dòng chính thứ hai: Don Sahong, là một con đập-dòng-chảy / run-of-river dam nằm trong vùng Thác Khone / Siphadone thuộc tỉnh Champasak, Nam Lào chỉ cách biên giới Cam Bốt 2 km. Lào chưa công khai đưa ra một đồ án chính thức / project’s final design và chi tiết về con đập Don Sahong. Sơ khởi được biết con đập chỉ có công xuất 260 MW, cao 30m, có chiều ngang rộng 100m, trụ trên suốt chiều dài 5 km của hẻm nước /water channel Hou Sahong. (4)

 

Thác Khone rất hùng vĩ gốm rất nhiều ghềnh thác và hàng ngàn đảo nối tiếp nhau (do đó còn có tên Tứ Thiên Đảo/ Four thousand islands), nơi mà trong mùa mưa, theo Ts Nguyễn Đức Hiệp một chuyên gia môi trường Úc châu, thì lượng nước và lượng phù sa đổ xuống từ thác Khone còn lớn hơn cả tổng lượng nước của cả hai con thác Niagara ở Bắc Mỹ và Victoria ở Phi châu. (7)

 

Từ tây sang đông thác Khone có nơi trải rộng tới 14 km, khúc trải rộng nhất của toàn thể chiều dài con sông Mekong. Về phương diện đa dạng sinh học, thác Khone là phần hết sức kỳ lạ của con sông Mekong. Ngay dưới chân thác là một quần thể phong phú nhất về cá, những loài cá nước ngọt không chỉ của Đông Nam Á mà phải nói là của cả thế giới nữa. Không phải chỉ có nguồn nước, nguồn phù sa, mà nguồn thuỷ sản nhất là cá là nguồn protein chính và quan trọng đối với đa số cư dân sống trong lưu vực, nhất là Lào và Cam Bốt. 

 

Khúc sông Mekong nơi thác Khone chính là trọng điểm hay còn có thể gọi là “ tử huyệt” của toàn hệ sinh thái lưu vực sông Mekong.

 

Sự đa dạng sinh học của sông Mekong, với khoảng 1,500 chủng loại cá trong số đó có hơn 2/3 thuộc loại di ngư / migratory fish, theo mùa lội ngược dòng Mekong và lên cả các phụ lưu trong chu kỳ sinh sản và tăng trưởng; đa số thuộc loại cá đánh bắt là nguồn lương thực và trao đổi thương mại.

Sông Mekong với nguồn nước ngọt và trữ lượng phù sa phong phú đã khiến ĐBSCL Việt Nam bấy lâu là cái nôi sản xuất cảng gạo lớn thứ hai của cả thế giới, chỉ đứng sau Thái Lan và đồng thời cũng là vựa cá nước ngọt lớn nhất với 4 triệu tấn mỗi năm trị giá lên tới 9 tỉ MK, chưa kể tới những tôm cua rùa ốc và cả rong tảo chiếm tới 80% lượng protein của cư dân lưu vực.

      Đoàn thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée / Francis Garnier khi ngược dòng sông Mekong (1866) đã phải kinh ngạc khi đối diện với thác Khone. Cảnh tượng thì hùng vĩ với vang ầm tiếng nước đổ vào các ghềnh đá sủi bọt tung tóe.

      Thác Khone từng được ví như một phòng thí nghiệm thiên nhiên lý tưởng, một thế giới vi mô – microcosm của toàn hệ sinh thái sông Mekong,  nơi để cho các nhà sinh học và ngư học nghiên cứu. Do tầm quan trọng độc nhất vô nhị ấy khiến TS Mark Hill đã kêu gọi bằng mọi giá phải bảo vệ sự toàn vẹn của vùng thác Khone trong những kế hoạch phát triển và xây các đập thủy điện trên sông Mekong.

 

      Ian Baird người Gia Nã Đại, nay là Gs Đại học Wiscosin từ nhiều năm tình nguyện sang sống ở Lào và từ 1993 trực tiếp điều hành một dự án ở Nam Lào – Laos Community Fisheries and Dolphin Protection Project với ngân khoản vỏn vẹn chỉ có 60 ngàn đôla mỗi năm để kết hợp 63 làng xã trong vùng nhằm vận động bảo vệ loài cá Dolphin đang có nguy cơ bị tuyệt chủng nhưng xa hơn là phát triển một nền ngư nghiệp bền vững –  sustainable fishing vì ai cũng biết “lúa và cá” là xương sống của nền kinh tế lưu vực sông Mekong. (1) [Hình III]

HAI CUC 3-ntv

 

Hình III_ Ian Baird, nhà hoạt động môi sinh, sống nhiều năm trên đất Lào và là chuyên gia bảo vệ nguồn cá sông Mekong. (Nguồn: Tom Fawthrop)

 

NIỀM VUI TRONG THIÊN TAI

      Từ hình ảnh ước lệ về  một ĐBSCL “làm chơi ăn thiệt” với ruộng đồng thẳng cánh cò bay, thì nay người dân ĐBSCL phải “đổ mồ hôi sôi nước mắt” mà vẫn cứ không đủ ăn, và những đứa con của họ phải đi “tha phương cầu thực” sang các xứ Đại Hàn, Đài Loan, Trung Quốc… nhưng rồi ngay vẫn trên “vùng đất khổ” đó, người ta vẫn cứ tận khai thác các chuyến Du Lịch Sinh Thái / Ecotourism được quảng cáo tràn ngập với bao nhiêu hình ảnh của một ĐBSCL được thiên nhiên ưu đãi, với các khu nhà vườn, tràm chim rồi tới vô số các món ăn đặc sản Miền Tây với đủ loại cá tôm và hoa trái...

Người xem thì cứ tưởng như là đó mãi mãi một nguồn tài nguyên thiên nhiên bất tận, nhưng có ai biết đó là thứ “niềm vui trong thiên tai” như lời thơ của Nguyễn Đình Toàn, người đã từng ví nước sông Mekong như là máu của đất. Và có ai mà nghĩ được rằng ĐBSCL đang mang hình ảnh một con tàu bấp bênh trên biển lớn và mỗi con đập trên dòng chính sông Mekong là những lỗ thủng lớn nhỏ hai bên thân tàu và nước mặn thì càng ngày càng tràn sâu vào các xoang bên trong. Và hậu quả nhãn tiền là những cánh đồng lúa bị cháy xém vì nhiễm mặn. [Hình IV]

      Và cũng trên chính cánh đồng lúa cháy đó, Gs Võ Tòng Xuân, Nguyên Viện trưởng Đại Học An Giang đã phát biểu: “Sản xuất lúa gạo Đồng Bằng Sông Cửu Long bị đe dọa hơn nữa do xây con đập thứ hai Don Sahong ở Nam Lào. Con đập chắn ngang dòng chính Mekong khi đổ vào vùng Thác Khone, sẽ làm giảm dòng chảy, gây nguy hại cho khu bảo tồn Ramsar Siphadone, cho mùa màng và ngư nghiệp dưới nguồn. Chúng tôi đã chứng kiến những cánh đồng lúa lan rộng trong mùa khô trên khắp các vùng Đông Bắc Thái, Nam Lào và Cam Bốt, đã rút đi một lượng nước sông rất đáng kể trong vùng. Nhiều năm qua, nguồn nước cung cấp cho các vụ lúa mùa khô nơi ĐBSCL đã bị sút giảm nghiêm trọng, hậu quả là nạn nhiễm mặn tiến sâu vào đất liền xa tới 80 km và gây tổn hại cho mùa màng. Chúng tôi kêu gọi chính phủ Lào và các nhà đầu tư Mã Lai hãy tự tiết chế không gây tác hại thêm cho dòng chính sông Mekong nhằm bảo vệ môi sinh và cư dân nơi hạ nguồn.” [26-10-2013]

HAI CUC 4-ntv

Hình IV_ Gs Võ Tòng Xuân trên ruộng lúa bị cháy vì nhiễm mặn tại quận Gia Rai,  Đồng Bằng Sông Cửu Long. (nguồn: Gs Võ Tòng Xuân. Đại học An Giang)  

[ Tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc về Quy ước Ramsar / Ramsar Convention (1971), nhằm bảo vệ và sử dụng khôn ngoan nguồn tài nguyên các vùng đất ngập / wetlands và cùng xác định những khu bảo tồn, được mỗi quốc gia và quốc tế công nhận. Cả 3 nước Lào, Cam Bốt và Việt Nam đều có những vùng đất ngập được bảo vệ bởi Quy ước Ramsar này như: vùng Thác Khone, Stung Treng, vùng Sinh Thái Biển Hồ, Tràm Chim Tam Nông, Mũi Cà Mau... ]  

 THAY KẾT TỪ

      Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton và sau đó là cả Thượng Viện Mỹ (07/2011) đã từng khẩn thiết kêu gọi các quốc gia Mekong cần tránh những lỗi lầm của Hoa Kỳ từ hơn 100 năm qua khi quyết định vội vã xây các con đập và sau đó phải trả bằng những bài học đắt giá ra sao. (5)

 

      Không kể đến một nước lớn Trung Quốc đã hành xử một cách vô trách nhiệm, khống chế và tận khai thác nguồn thuỷ điện trên suốt nửa chiều dài trên của con sông Mekong, bất kể hậu quả và cái giá phải trả ra sao với các quốc gia hạ lưu. Nhưng rồi ngay các quốc gia Mekong khác cũng không hơn gì. Cho dù động lực phát triển kinh tế và đáp ứng cơn khát về năng lượng là những nhu cầu chính đáng, nhưng để đi tới mục tiêu ấy, vội vã xây những con đập mà không kể gì tới hậu quả về môi trường cùng với những tác dụng tiêu cực về kinh tế xã hội như an toàn lương thực, phẩm chất môi trường thì đó là những lâu dài xây trên cát lún.

 

      Chỉ thấy những lợi lộc ngắn hạn trước mắt với những bước “Phát triển Không Bền vững / unsustainable development”, hay đúng hơn là bước “Phát Triển Tự Huỷ” làm mất hết nguồn tài nguyên thiên nhiên với hậu qủa là các thế hệ tương lai sẽ phải sống trên một vùng đất đai cạn kiệt và càng ngày càng nghèo đi.

 

      Uỷ Hội Sông Mekong/ MRC kể từ ngày thành lập 1995, sau 19 năm hiện diện, khi bị thử thách với điển hình 2 con đập Xayaburi và Don Sahong của Lào, MRC đã chứng tỏ là một tổ chức không có thực lực và cả vô hiệu trong giải quyết các cuộc tranh chấp xuyên biên giới giữa các quốc gia Mekong, nguyên do MRC thiếu hẳn biện pháp cưỡng chế / enforcement mechanism. Nếu không có ngay một tái cấu trúc cho tổ chức này, chúng ta có thể tiên liệu rằng, cũng sẽ tái diễn cùng một kịch bản với 10 con đập dòng chính hạ lưu còn lại, đó sẽ là một thảm hoạ cho hệ sinh thái sông Mekong và cũng là hồi chuông báo tử cho ĐBSCL.  

    

      Với “Tinh Thần Sông Mekong” như một mẫu số chung, không bị chia cắt bởi những hàng rào chính trị và quyền lợi cục bộ, các quốc gia Mekong có khả năng cùng chung sức xây dựng một nền tảng phát triển hiệu quả, bền vững, đáp ứng được nhu cầu sản xuất điện, tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo khó nhưng vẫn bảo tồn được nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ tương lai. 

 

Cũng để thấy rằng “Sông Mekong đang bị đe dọa nghiêm trọng vì sự lạm dụng nguồn nước và hậu quả của biến đổi khí hậu. Nếu không có một chính sách khai thác thận trọng và hợp lý các nguồn tài nguyên sông Mekong, con sông hùng vĩ này không thể nào sống còn”.

 

Phát biểu cô đọng và nhiều ý nghĩa trên, không phải từ cửa miệng một giới lãnh đạo Việt Nam mà lại là từ một nguyên Thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva, trong Hội nghị Thượng đỉnh Mekong tại Hua Hin, Thái Lan cách nay cũng đã hơn 4 năm rồi [Hua Hin MRC Summit 2010].

 

 

NGÔ THẾ VINH

09 - 14 - 2014 

 

 

THAM KHẢO:

1/ The Don Sahong; Potential Impacts on Regional Fish Migrations, Livelihoods, and Human Health. Ian G. Baird. Critical Asian Studies Volume 43, Issue 2, 2011 http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/14672715.2011.570567#.Umni5yhYmgF

 

2/ The Mekong, Environment and Development, Hiroshi Hori, United nations, University Press, Tokyo 2000

 

3/ Chinese environmentalists and scholars appeal for dam safety assessments in geologically unstable south-west China,, https://probeinternational.org/referenced/chinese-environmentalists-and-scholars-appeal-dam-safety-assessments-geologically-unstabl.

 

4/ Lao PDR submits notification on Don Sahong Hydropower Project. Vientiane, Lao PDR, 3rd Oct 2013 http://www.mrcmekong.org/news-and-events/news/lao-pdr-submits-notification-on-don-sahong-hydropower-project/

 

5/ Remarks at the Second Friends of the Lower Mekong Ministerial Remarks; Hillary Rodham Clinton, Phnom Penh, Cambodia; July 13, 2012 http://www.state.gov/secretary/rm/2012/07/194957.htm

 

6/  Chinese Dam Project may spell disaster for mighty  Mekong River.

Denis Gray, Nov 2, 2002 [AP]

 

7/ Dự án xây đập thủy điện Don Sahong và ảnh hưởng môi trường. Nguyễn Đức Hiệp; http://vietecology.org/Article.aspx/Article/75

 

8/ Lao official, developer differ over dam’s status. Laignee Barron and Vong Sokheng. Phnom Penh Post, 20 Aug 2014

http://www.phnompenhpost.com/national/lao-official-developer-differ-over-dam’s-status

 

9/ No More Dams on the Mekong. David Roberts. New York Times Sept 3, 2014 http://www.nytimes.com/2014/09/04/opinion/no-more-dams-on-the-mekong.html?emc=eta1&_r=0

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Giêng 20224:09 CH(Xem: 11559)
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới. Thế nhưng, ở một nơi xa kia, có một ông già gầy gò, ốm yếu, tóc bạc hàng ngày đến thư viện các trường đại học ở Mỹ để photo các tài liệu về văn chương Miền Nam Việt Nam, hàng ngày ông “ngồi khâu lại di sản”, vá lại một nền văn học đã bị đốt cháy trên chính quê hương mình, tự mình thành lập tủ sách di sản văn chương Miền Nam nhằm lưu giữ, chia xẻ lại cho đời sau, đó là nhà văn Trần Hoài Thư.
28 Tháng Mười Hai 202110:43 CH(Xem: 10050)
Cuộc triển lãm này nêu ra luận điểm rằng bản chất nội tại của sự sống và của tất cả các sinh vật là không đồng nhất, mà đúng hơn là được kết cấu bằng nhiều mối tương quan dị biệt để tạo ra Cái Khác. Luận điểm này, vì thế, đã phá vỡ mọi tôn ti dựa vào những khái niệm áp đặt về bản sắc và tính đồng nhất.
15 Tháng Mười Hai 20219:00 CH(Xem: 10077)
Dohamide, người gốc Chăm, sinh năm 1934 tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang), có thêm ba bút hiệu nhưng ít được biết đến: Linh Phương, Châu Giang Tử, Châu Lang. Khi Dohamide có bài viết đầu tiên “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1962, Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã giới thiệu anh với độc giả như sau: “Bạn Dohamide, tác giả loạt bài sau đây, là người gốc Chàm, sanh tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang). Bạn đã có can đảm thoát ly những ràng buộc khắt khe của tập tục địa phương để lên thủ đô Sài Gòn vừa đi làm nuôi gia đình vừa đi học, và hiện nay bạn đã tốt nghiệp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Ngoài tiếng Chàm là tiếng mẹ đẻ, bạn Dohamide biết nói và viết các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Á Rập, Mã Lai, Cam Bốt, những thứ tiếng này đã giúp bạn Dohamide rất nhiều trong những thiên khảo cứu như trình bày với bạn đọc.” [Bách Khoa, số 135, 15/8/1962]
08 Tháng Mười Hai 202110:17 CH(Xem: 9743)
Chúng tôi xin được lấy tên thiên tiểu luận đặc sắc Một cuốn kinh về tình thương [12, tr.139] của nhà văn Lưu Trọng Lư làm nhân lõi cho nội dung bài viết này. Người viết vốn được mệnh danh là “nhà văn của tình thương” từ đầu những năm 30 của thế kỷ trước đã “chiêu tuyết” cho nhân vật từng bị phán xét là “đĩ đứng đầu” bằng những lời nồng nhiệt, đặc biệt nhận định Thúy Kiều là “kẻ có một mối từ tâm lớn” [13, tr.1690]. Và suốt từ khi Truyện Kiều ra đời đến nay, tình thương hay “mối từ tâm lớn” toát ra từ kiệt tác này cùng những giá trị nội dung tư tưởng nhiều mặt của nó đã/ đang được bàn luận sôi nổi, với nhiều lý thuyết cũ - mới chắc không bao giờ chấm dứt…
28 Tháng Mười Một 20219:39 CH(Xem: 9693)
Xem xong phim “LEVIATHAN”, tôi nhớ tới bộ phim màu Liên-xô “ILIA MUROMET” từ hơn nửa thế kỷ trước và chợt nghĩ: nhiều người có tuổi thơ đã từng say mê dán mắt trên màn ảnh bộ phim quay về một câu chuyện cổ tích Nga nọ, nếu hôm nay được xem bộ phim Nga hiện đại “LEVIATHAN” dựa theo câu chuyện về một quái vật thần thoại trong Kinh Thánh, chắc sẽ bàng hoàng, ngỡ ngàng đến đau đớn… Cái vẻ đẹp phi thường của dũng sĩ huyền thoại Nga chiến thắng rồng lửa nhiều đầu để bảo vệ hạnh phúc dân lành giờ đã biến mất tăm, chỉ còn lại trên đất nước hùng vĩ ấy sự thống trị & lộng hành của cái ác, sự giả dối đáng kinh tởm, trở thành lãnh địa của những kẻ ngang nhiên chà đạp lên quyền sống người lương thiện, bên đống xương mục của Cá Ông voi,Vua Biển cả - vết tích sót lại của một thời cổ tích tựa ánh tàn của mơ ước Con người từ ngàn xưa đang hấp hối…
18 Tháng Mười Một 20213:43 CH(Xem: 11543)
Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà… Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình. Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Tạ Tỵ [thư gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 29.2 & 27.7.2000]
01 Tháng Mười Một 202111:05 CH(Xem: 10433)
Tôi xin tạm mượn nhận định của một nhà văn học sử Nga viết về văn hào F. Dostoyevsky để nghĩ về phim AIKA (sản xuất năm 2017) - bộ phim đã đoạt một số giải thưởng Quốc tế mà tôi vừa được xem, vì thấy rõ một điều: truyền thống hiện thực chói sáng của văn học Nga cổ điển - tiêu biểu là F. Dostoyevsky hóa ra vẫn được tiếp tục một cách xứng đáng trong văn học nghệ thuật Nga hiện đại (ở đây tôi chỉ xin nói tới một dòng của điện ảnh Nga tạm gọi là “Hiện thực tàn nhẫn không thương xót”) - có nghĩa là đã vượt qua vòng “Kim cô” Hiện thực xã hội chủ nghĩa từng thống trị tinh thần xã hội Xô Viết một thời gian dài dẫn đến những tác phẩm nghệ thuật nặng tuyên truyền phục vụ kịp thời và đã rơi vào lãng quên…
26 Tháng Mười 202112:17 SA(Xem: 10472)
“… những cố gắng suy nghĩ của một người vẫn ước muốn tự đặt cho mình một kỷ luật đồng thời cũng là một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua và cứ như thế mãi mãi…” [Cùng bạn độc giả, Lược Khảo Văn Học I] [1] Nguyễn Văn Trung
10 Tháng Mười 202111:31 CH(Xem: 10474)
Sau khi đưa một cảm ngôn về bức tranh của họa sĩ Lê Sa Long & ý kiến của nhà văn Trần Thùy Linh như một lời kêu gọi các nhà điêu khắc, họa sĩ, nhà văn, nhạc sĩ hôm nay: “DỰNG TƯỢNG ĐÀI NÀY ĐI: CUỘC “THIÊN DI” CỦA NHỮNG ĐỨA TRẺ VÀ BÀ MẸ CHƯA TỪNG CÓ TRONG LỊCH SỬ…”, nhằm góp phần miêu tả “nhân vật chính của Thời Đại, biểu tượng cho cả một dân tộc vượt lên cảnh ngộ bi kịch tìm lối thoát cho quyền sống của mình”, rất nhiều người đã ủng hộ. Nhưng cũng có không ít người lồng lên phản đối như bị “chạm nọc”, thậm chí chửi bới rất tục tĩu (xin lỗi không viết ra vì xấu hổ thay cho họ). Để trả lời họ, với tư cách là một người làm phim, tôi xin có vài suy ngẫm về NHÂN VẬT THỜI ĐẠI giúp họ tham khảo.
08 Tháng Mười 20219:37 CH(Xem: 9806)
Trong toàn bộ thơ văn chữ Hán, chữ Nôm của Đại thi hào Nguyễn Du, có một kiểu/ loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt được ông thể hiện với cảm hứng thi ca và nghiệm sinh sâu sắc - đó là những người phụ nữ Tài - Sắc mà số phận bất hạnh, những “má hồng phận mỏng”, những giai nhân bạc mệnh, “hồng nhan đa truân”, phải chịu số phận “Tài Mệnh tương đố” với lời nguyền ác nghiệt: “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”… Cần khẳng định ngay một điều là, cái vẻ đẹp bí ẩn, quyến rũ, cuốn hút, thấm đẫm hồn cốt phương Đông kèm theo tài hoa hiếm có của họ, với Nguyễn Du là “chất ngọc quý” của đời, như một giá trị mang tính nhân bản - dù họ ở tầng lớp con hầu, kỹ nữ dưới đáy xã hội, hay ở bậc nữ hoàng, phi tử cao vời…