- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

CUNG TÍCH BIỀN VÀ XỨ ĐỘNG VẬT MÀU HUYẾT DỤ

31 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 40228)


cungtichbien-lethanhthu-content

 Cung Tích Biền -ký họa Lê Thánh Thư (SG 12-2010)


Trong một lần trao đổi, bạn tôi hỏi đã đọc “Animal Farm” của George Orwell chưa? Tựa đề tập truyện ngay tức khắc làm tôi liên tưởng đến nhà văn Cung Tích Biền với những câu chuyện huyền ảo về Xứ động vật của ông.

Với Cung Tích Biền “
Văn chương có thể huyền ảo, nhưng trách nhiệm của Nhà văn không thể là một hư ảo” và ông đã sống như vậy.


Cung Tích Biền là nhà văn Miền Nam độc lập, ông thú nhận, sau năm 1975 “Tôi tự cô lập bằng cách sống ẩn mình,…đoạn tuyệt với những mối quan hệ không cần thiết, trong hòa đồng xã hội…giữ vị thế cô đơn để trọn vẹn cuộc Hành nghiệp”. Sau thời hậu chiến, ông lặng lẽ chiêm nghiệm, miệt mài sáng tác và hơn 30 năm sau, tự mình xuất bản chỉ để lưu lại cho đời Bộ Tổng Tập Văn chương gồm trên 10 quyển, non 7.000 trang sách.



Tôi gặp ông cũng thật bất ngờ, buổi chiều hôm ấy thật đông bạn bè.
Đặng Hiền về thăm, có Lê Thánh Thư, Thận Nhiên, Lý Đợi, Inrasara, Đami… Đặng Hiền phone mời ông đến, tôi không thể nghĩ người đàn ông tóc bạc phơ, với khuôn mặt tươi trẻ, nụ cười rạng rỡ toát lên vẻ yêu đời, bên cạnh một cô gái cháy bỏng lại là ông. Một nhà văn ít xuất hiện trước đám đông, giọng văn cay độc, với cách nhìn đời lão luyện quá thâm sâu, tôi nghĩ phải là một nhà hiền triết, không thể là một “Lão ngoan đồng” như vậy. Nhưng tôi đã sai. Đúng là VănNgười hoàn toàn tách biệt. Sau này, Trần Vũ kể ông thích khiêu vũ và nhảy rất điệu nghệ. Có lần Vũ và ông đi hộp đêm, Cung Tích Biền thuê cave quay valse và tango điêu luyện.

 

Sau vài ly rượu, Lê Thánh Thư cao hứng ký họa ngay trên bàn rượu hình ảnh của Cung Tích Biền, Thận Nhiên và tôi…Đặng Hiền đòi giữ bản quyền cho HL khi có bài in. Không biết bây giờ có còn không? Nhìn là vậy, nhưng ông chỉ mỉm cười ngồi nghe mấy kẻ hậu sinh tranh nhau luận bàn, tôi ngồi im nhìn ông. Và tò mò nhìn cô gái cùng đi rất điệu nghệ chăm sóc ông chu đáo. Ông nói sẽ gửi cho tôi các tập sách đang in và đã giữ lời hứa. Một năm sau, tôi nhận được 5 tập sách ông gửi. Tập hợp hầu hết những trước tác của đời ông. Sách in đẹp, với lời đề từ trang trọng. Ông tự in ấn, với phần ghi chú rỏ ràng, khẳng định quyền xuất bản của nhà văn không cần ai kiểm duyệt. “NXB Một mình. Có mục đích bảo lưu tác phẩm và tác quyền của tác giả. Việc phổ biến có giới hạn, không lệ thuộc vào bất cứ điều luật nào hạn chế việc Tự do phổ biến Tác phẩm”.

Lời đề từ đặc biệt “ngạo đời” như tính cách của ông.


Trong một lần phỏng vấn, nhà văn Cung Tích Biền đã nói:

Tác phẩm, mới là cái Có-Mặt. Mới là thường -trực- trả- lời. Một thường- trực- trả- lời, trong hoàn cảnh Việt Nam hôm nay, phải là
một trung- thực- chịu- nạn
”.


Trước năm 1975, tôi chỉ là một cô bé, truyện của ông quá tầm tay với, tôi chỉ mới đọc những truyện dành cho thiếu nhi của Duyên Anh, Nhật Tiến, nhiều lắm là Văn chương Tự lực Văn đoàn, còn văn chương của ông với tôi là một xa lạ…Sau năm 1975, càng xa vời vì tôi chưa từng nghe nhắc trong trường học, hay được bày bán ở các hiệu sách. Văn chương Miền Nam tuyệt nhiên vắng bóng. Tủ sách bé con của tôi không có chổ cho ông. Lần đầu tiên tôi đọc ông là truyện Bạch Hóa
đăng trên Hợp lưu năm 2005, nó bày ra thảm cảnh kinh hoàng của chiến sự Việt Nam trong lòng đất nước, giọng văn ráo hoảnh, khô khốc, lạnh băng.


Tôi thực sự lạc vào mê cung khi đọc những truyện ngắn của ông khi nhận được sách ông gửi tặng.

Lâu lắm rồi, mới có những câu truyện hút hồn tôi bắt tôi đọc không ngơi nghỉ hằng đêm như vậy. Với ngôn từ ma lực, không gian hư ảo tôi lang thang đi từ Dị Mộng, Qua Sông, Thằng bắt quỷ, Ngoại ô Dĩ an và linh hồn tôi, Đêm hoang tưởng, Thừa Dư, Mùi của gió mùa, Một phần khí hậu, Xứ động vật mưa hồng, Xứ động vật vào ngôi, Xứ động vật màu huyết dụ…tôi rợn mình khi lạc vào thế giới đầy ma quái, huyễn ảo trong khu vườn âm u, sương khói của ông.


Ngọn lửa hồng cha con Trần Liêu đốt trong đêm đen kỳ bí, hiểm nguy rình rập để đi tìm vùng đất mới trong “Qua sông” :

 “Ngọn lửa kia đã tàn trong thiên thu. Con cháu Người-Đốt-Lửa hãy còn. Lửa ấy không chỉ là một thứ ánh sáng vô cảm, trong một xã hội máy móc, lạnh lùng. Lửa ấy cũng không siêu nhiên xa lạ, cũng không nằm chết trong ý nghĩ hạn hẹp hiện thực của lửa. Nó có thể đã biến thành một dạng ánh sáng khác: đậm đà như ca dao, rực rỡ như lời ca hạnh phúc, hay ngậm ngùi như tiếng hát gọi nát lòng của những thân phận hẩm hiu của Mẹ, của Giao Châu.

Ngọn lửa thiên thu kia đã có một linh hồn và một tác động vĩnh cửu.
Chúng ta ghi nhớ lại, cũng có nghĩa là sẽ đốt lên.

Và, chúng ta chẳng hề quên câu nói tiềm vọng của Liêu: “Chúng ta sẽ bắt đầu làm lại tất cả. Dẫu rằng trong bóng tối mịt mùng, nhưng trên quê nhà, hôm nay chúng ta đốt một ngọn lửa hồng”.

Liệu ngọn lửa hồng mà cha con Trần Liêu ngày xưa đốt lên hôm nay đã đẩy lùi được bóng tối?

Truyện của ông thường là những Bóng, Xác, Máu, Xương…những huyễn ảo kỳ bí đưa người vào những mê cung sâu thẳm.

Hãy xem cuộc đối thoại giữa nhà văn với nhân vật “Cô mơ bay”:

“Mơ Bay nói. Mơ Bay tâm sự. Tiếng cô nói hình như không đi từ miệng cô tới lỗ tai người nghe trước mặt. Nó lang thang, vòng vo. Như ai nói ở xa kia trong trà trộn đủ thứ tạp âm đời, quanh đây.

Tâm sự của cô, như âm vang đi tới từ cái ghế đá, hốc cây, từ viên gạch lót đường. Như đất đai đau, đành cất tiếng. Đôi mắt Mơ Bay là khá hoang mị. Chừng như cả tinh lực kia đang chìm trong cái ý tưởng rất hư hoang mà cô diễn bày:

Em là thiên thần sờ nắm được giấc mơ. Phải dựng mộng dậy. Gắn xương cốt cho mộng. Mỗi cơn mộng phải là một Có Thực. Như cây trên đồi. Như vật thể hiện ra quanh đây. Mộng phải thấm được nước. Bốc cháy khi gặp lửa. Ta nói thì mộng phải biết nghe. Ta thổ lộ niềm mong ước, mộng phải OK. Anh ạ, ‘Nó,’ cái vô hình hiện ra đó. Giấc mơ, ‘Nó’ đang bước tới. ‘Nó’ chào và bắt tay em.”

Tôi nói:

“Bắt tay được với một Cái-Trống-Rỗng, thì phải đáng rùng mình.”

Mơ cười:

Chính giấc mơ nó sử dụng em. Cũng như anh, anh nhà văn ạ, anh bị huyền hư sử dụng. Rồi anh sẽ vẽ lại giấc mơ của em qua những giọt màu có thật.”

Một ngày cận Tết, những mầm hoa đang ủ hương trong búp. Chờ vỡ òa trong nắng đầu xuân. Mơ Bay nói: “Khi những nụ mai tàn, em bay.”


Sao là tàn một mùa nở rộ, em mới bay?

***

Có một người đàn ông bước chậm rãi lên thang lầu. Bước vào phòng ngủ. Đã quen cái cách của Mơ Bay, ông không bật đèn. Qua ánh sáng đèn đường rọi vào ông thấy một sự bày biện khá lạ lùng. Mền gối chăn mùng giày dép, áo quần đồ trang điểm của Mơ Bay được thu gom vào cái bao tải bự. Ngoài, có hàng chữ: “Đồ ve chai.”

Có một là thư dằn trên mặt bàn:

“Anh ạ, em Ra-Khỏi rồi. Hồn ra khỏi. Xác em là ve chai trong bao tải.
“ Hồi đầu em trèo lên ngọn cây sọ khỉ, nhưng cành lá nhiều quá không cất cánh được. Em lên nóc một cao ốc, nhìn thành phố bên dưới như một bãi tha ma trắng, những nhà cao tầng là những ngôi mộ lớn, em lại thôi, cất cách nơi này chẳng thơ mộng chút nào.

“Em lên cao nguyên. Bên vực thẳm giữa hai hẻm núi, em bay. Anh yên chí, em không hề rơi xuống vực sâu. Chính đôi mắt ta nhìn hẻm núi thăm thẳm bên dưới. Sợ hãi kia, thay vì đầu hàng rơi xuống, sẽ giúp em mạnh mẽ bay lên cao.

“Anh sẽ thấy trong trời mùa Xuân này một con chim lạ. Em đấy. Khi một con chim biến ra một con người là số phận không may. Con người biến được thành con chim mới là hạnh phúc, là ân sủng của Tự do.

Hôn anh.

Em của anh

Mơ Bay”

III

Giấc mơ bị bể sọ não.

Một cái vô hình bị thương tích.

Một cái vô hình đang được chỉnh sửa.

Rất mong manh hồi sinh.”

Truyện của Cung Tích Biền là vậy, rất kén người đọc, nhiều khi sẽ rất khó hiểu và không hợp “gout” với loại bạn đọc chỉ muốn tìm những truyện tình lãng mạn để tiêu khiển thời gian.

Truyện của ông luôn làm người đọc hoang mang, dằn vặt, thao thức và sốt. Hiểu về truyện của ông ư, nói thật đến bây giờ tôi cũng mơ hồ. Tôi đi lạc vào ma trận của ông mà chưa tìm được lối ra.

 
Thứ lỗi cho tôi, tôi vẫn còn nợ ông bài viết.

Cung Tích Biền là tác giả Miền Nam tôi chưa với tới. Hãy cho tôi thêm thời gian.

 

BAN MAI

5.2014
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Giêng 20224:09 CH(Xem: 11663)
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới. Thế nhưng, ở một nơi xa kia, có một ông già gầy gò, ốm yếu, tóc bạc hàng ngày đến thư viện các trường đại học ở Mỹ để photo các tài liệu về văn chương Miền Nam Việt Nam, hàng ngày ông “ngồi khâu lại di sản”, vá lại một nền văn học đã bị đốt cháy trên chính quê hương mình, tự mình thành lập tủ sách di sản văn chương Miền Nam nhằm lưu giữ, chia xẻ lại cho đời sau, đó là nhà văn Trần Hoài Thư.
28 Tháng Mười Hai 202110:43 CH(Xem: 10176)
Cuộc triển lãm này nêu ra luận điểm rằng bản chất nội tại của sự sống và của tất cả các sinh vật là không đồng nhất, mà đúng hơn là được kết cấu bằng nhiều mối tương quan dị biệt để tạo ra Cái Khác. Luận điểm này, vì thế, đã phá vỡ mọi tôn ti dựa vào những khái niệm áp đặt về bản sắc và tính đồng nhất.
15 Tháng Mười Hai 20219:00 CH(Xem: 10157)
Dohamide, người gốc Chăm, sinh năm 1934 tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang), có thêm ba bút hiệu nhưng ít được biết đến: Linh Phương, Châu Giang Tử, Châu Lang. Khi Dohamide có bài viết đầu tiên “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1962, Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã giới thiệu anh với độc giả như sau: “Bạn Dohamide, tác giả loạt bài sau đây, là người gốc Chàm, sanh tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang). Bạn đã có can đảm thoát ly những ràng buộc khắt khe của tập tục địa phương để lên thủ đô Sài Gòn vừa đi làm nuôi gia đình vừa đi học, và hiện nay bạn đã tốt nghiệp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Ngoài tiếng Chàm là tiếng mẹ đẻ, bạn Dohamide biết nói và viết các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Á Rập, Mã Lai, Cam Bốt, những thứ tiếng này đã giúp bạn Dohamide rất nhiều trong những thiên khảo cứu như trình bày với bạn đọc.” [Bách Khoa, số 135, 15/8/1962]
08 Tháng Mười Hai 202110:17 CH(Xem: 9828)
Chúng tôi xin được lấy tên thiên tiểu luận đặc sắc Một cuốn kinh về tình thương [12, tr.139] của nhà văn Lưu Trọng Lư làm nhân lõi cho nội dung bài viết này. Người viết vốn được mệnh danh là “nhà văn của tình thương” từ đầu những năm 30 của thế kỷ trước đã “chiêu tuyết” cho nhân vật từng bị phán xét là “đĩ đứng đầu” bằng những lời nồng nhiệt, đặc biệt nhận định Thúy Kiều là “kẻ có một mối từ tâm lớn” [13, tr.1690]. Và suốt từ khi Truyện Kiều ra đời đến nay, tình thương hay “mối từ tâm lớn” toát ra từ kiệt tác này cùng những giá trị nội dung tư tưởng nhiều mặt của nó đã/ đang được bàn luận sôi nổi, với nhiều lý thuyết cũ - mới chắc không bao giờ chấm dứt…
28 Tháng Mười Một 20219:39 CH(Xem: 9769)
Xem xong phim “LEVIATHAN”, tôi nhớ tới bộ phim màu Liên-xô “ILIA MUROMET” từ hơn nửa thế kỷ trước và chợt nghĩ: nhiều người có tuổi thơ đã từng say mê dán mắt trên màn ảnh bộ phim quay về một câu chuyện cổ tích Nga nọ, nếu hôm nay được xem bộ phim Nga hiện đại “LEVIATHAN” dựa theo câu chuyện về một quái vật thần thoại trong Kinh Thánh, chắc sẽ bàng hoàng, ngỡ ngàng đến đau đớn… Cái vẻ đẹp phi thường của dũng sĩ huyền thoại Nga chiến thắng rồng lửa nhiều đầu để bảo vệ hạnh phúc dân lành giờ đã biến mất tăm, chỉ còn lại trên đất nước hùng vĩ ấy sự thống trị & lộng hành của cái ác, sự giả dối đáng kinh tởm, trở thành lãnh địa của những kẻ ngang nhiên chà đạp lên quyền sống người lương thiện, bên đống xương mục của Cá Ông voi,Vua Biển cả - vết tích sót lại của một thời cổ tích tựa ánh tàn của mơ ước Con người từ ngàn xưa đang hấp hối…
18 Tháng Mười Một 20213:43 CH(Xem: 11644)
Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà… Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình. Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Tạ Tỵ [thư gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 29.2 & 27.7.2000]
01 Tháng Mười Một 202111:05 CH(Xem: 10508)
Tôi xin tạm mượn nhận định của một nhà văn học sử Nga viết về văn hào F. Dostoyevsky để nghĩ về phim AIKA (sản xuất năm 2017) - bộ phim đã đoạt một số giải thưởng Quốc tế mà tôi vừa được xem, vì thấy rõ một điều: truyền thống hiện thực chói sáng của văn học Nga cổ điển - tiêu biểu là F. Dostoyevsky hóa ra vẫn được tiếp tục một cách xứng đáng trong văn học nghệ thuật Nga hiện đại (ở đây tôi chỉ xin nói tới một dòng của điện ảnh Nga tạm gọi là “Hiện thực tàn nhẫn không thương xót”) - có nghĩa là đã vượt qua vòng “Kim cô” Hiện thực xã hội chủ nghĩa từng thống trị tinh thần xã hội Xô Viết một thời gian dài dẫn đến những tác phẩm nghệ thuật nặng tuyên truyền phục vụ kịp thời và đã rơi vào lãng quên…
26 Tháng Mười 202112:17 SA(Xem: 10564)
“… những cố gắng suy nghĩ của một người vẫn ước muốn tự đặt cho mình một kỷ luật đồng thời cũng là một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua và cứ như thế mãi mãi…” [Cùng bạn độc giả, Lược Khảo Văn Học I] [1] Nguyễn Văn Trung
10 Tháng Mười 202111:31 CH(Xem: 10538)
Sau khi đưa một cảm ngôn về bức tranh của họa sĩ Lê Sa Long & ý kiến của nhà văn Trần Thùy Linh như một lời kêu gọi các nhà điêu khắc, họa sĩ, nhà văn, nhạc sĩ hôm nay: “DỰNG TƯỢNG ĐÀI NÀY ĐI: CUỘC “THIÊN DI” CỦA NHỮNG ĐỨA TRẺ VÀ BÀ MẸ CHƯA TỪNG CÓ TRONG LỊCH SỬ…”, nhằm góp phần miêu tả “nhân vật chính của Thời Đại, biểu tượng cho cả một dân tộc vượt lên cảnh ngộ bi kịch tìm lối thoát cho quyền sống của mình”, rất nhiều người đã ủng hộ. Nhưng cũng có không ít người lồng lên phản đối như bị “chạm nọc”, thậm chí chửi bới rất tục tĩu (xin lỗi không viết ra vì xấu hổ thay cho họ). Để trả lời họ, với tư cách là một người làm phim, tôi xin có vài suy ngẫm về NHÂN VẬT THỜI ĐẠI giúp họ tham khảo.
08 Tháng Mười 20219:37 CH(Xem: 9881)
Trong toàn bộ thơ văn chữ Hán, chữ Nôm của Đại thi hào Nguyễn Du, có một kiểu/ loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt được ông thể hiện với cảm hứng thi ca và nghiệm sinh sâu sắc - đó là những người phụ nữ Tài - Sắc mà số phận bất hạnh, những “má hồng phận mỏng”, những giai nhân bạc mệnh, “hồng nhan đa truân”, phải chịu số phận “Tài Mệnh tương đố” với lời nguyền ác nghiệt: “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”… Cần khẳng định ngay một điều là, cái vẻ đẹp bí ẩn, quyến rũ, cuốn hút, thấm đẫm hồn cốt phương Đông kèm theo tài hoa hiếm có của họ, với Nguyễn Du là “chất ngọc quý” của đời, như một giá trị mang tính nhân bản - dù họ ở tầng lớp con hầu, kỹ nữ dưới đáy xã hội, hay ở bậc nữ hoàng, phi tử cao vời…