- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Kẻ ngoại lai

19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 38025)
cungtichbien_ke_ngoai_lai
Để nhớ Iris, cơn bão Giáp Thìn


I.
Mãi đến buổi sáng hôm đó, nhiều tháng ngày sau Iris, trong đầu óc chú Tư khi đi ngang qua chợ Phú Nhuận, chợt thấy mụ hàng thịt ngồi với mấy cân thịt tim tím, bầy ruồi xanh bay vo ve, mùi súc vật chết dậy lên ngai ngái, mùi thích hợp nhất cho một cơn buồn nôn – một quá khứ kinh hoàng chợt thức giấc, thịt bò thức giấc. Quá khứ: người ta đã ăn toàn thịt súc vật chết từ miền núi nguồn trôi về, suốt những ngày Iris gieo thảm họa.
Iris đã mang về biển đông trên ngàn xác người, và để lại trước mặt Tư hằng trăm con vật chết. Đám thôn dân mang dao mác ra cánh đồng chết mổ thịt những con vật đã nằm yên tĩnh trên lầy bùn. Người ta nấu, luộc ăn một cách ngon lành. Đói. Vì chẳng còn thóc lúa, tất cả đã trôi đi, bốc bay; người ta chỉ còn, chỉ có thịt trâu bò, sống nhờ xác những con vật chết, có thể hôm sau bắt đầu thối, và thiêng.
*

Ngay giữa nền nhà một xác bò đã từ đâu trôi về. Sau chái hè một con bò cắm đầu xuống khoảng bùn lầy. Nửa đêm Tư thức giấc, dạo chơi trong không gian có những khối thịt mềm, trăng soi trên xác trâu bò, ánh sao loang loáng trên mấy cái sừng thiêng láng nhẫy. Có thể, từ bên này khung cửa, trong không gian chiều rỗng, cơn bão vừa lặng, nhìn qua bên kia chân cầu heo hút – đám lính địa phương ốm gầy cũng sống qua ngày nhờ thịt bò.Trên cánh đồng lạnh lẽo tanh tanh, Iris vừa tàn nhẫn đi qua, Tư có thể đếm được hàng trăm xác súc vật, như tảng đá nâu, có tảng màu đen, bất động, những đá tảng có hai cái sừng cong, nhọn.
Không bao lâu sau, khi những đá-tảng-có-sừng bốc hết mùi, vì thịt đã từ lâu trôi rữa, chỉ còn trơ cái khung xương. Bấy giờ, bầu trời sau cơn bão dữ, đã trở lại màu nắng, không gian rộng hơn, cỏ bắt đầu xanh màu mạ trên những thửa bùn khô ráo, đám thôn dân đi rảo đó đây, cả trong những cách rừng thưa, gom nhặt xương trâu bò. Đám xương khổng lồ này được bỏ vào những cái thùng phuy, người ta đun lửa nấu chúng trong nhiều ngày đêm. Khi xương đã rục mềm, chúng được đổ vào những chiếc chảo nhỏ hơn. Lại đun nấu một thời gian nữa, cho cô đặc. Gọi rằng “nấu cao”, như người sơn cước nấu xương cọp, gọi là cao hổ cốt.
Những nồi cao bò trâu này được rót vào những cái khung nhỏ, đóng gói bằng lá chuối non theo cách dân dã. Lúc này cao vừa dẻo vừa mềm như một loại kẹo dừa. Người thôn quê mang ra phố thị bán cho các thầy đông y, hoặc các nhà buôn đông dược bắc nam. Các nơi văn minh đóng gói loại cao trâu bò này bằng giấy màu, bọc ni lông, vào thùng cát tông, đóng nhãn hiệu màu sắc đẹp đẽ, bán đi khắp nước, gọi dỏm rằng cao hổ cốt, loại thuốc bổ thượng thặng; với giá một vốn mười lời. Đấy, con bò chết vẫn còn là một khởi nguyên cho những màn lừa mị.

*

Kể ra, Iris đã tàn phá khủng khiếp, đê điều vỡ tràn, cầu cống gãy sụp, nhà cửa ruộng vườn trôi tan, cả những ngọn đồi cũng trở nên thấp hơn trước vì nước dữ phăng đứt ngọn đồi. Nhưng trong cái bóng tối tai ương ấy, dân chúng quê tôi được những ngày ăn thừa protein, dù thịt trâu bò chết. Lại thu được một khoảng lợi nhuận không nhỏ từ cốt xương nấu cao bán ra phố thị. Người ta xây lại nhà, mái tranh trở thành mái ngói. Lúc leo trên mái để lợp mái nhà, người ta thường nhìn thấy bên dưới, trong nắng soi nền, là chiếc bàn thờ mới lập chút hương khói, đang thờ người thân thương vừa chết trôi.
Sau bão lụt Iris bạo tàn – mà thằng sinh viên, cháu chú Tư đã giải thích một cách lếu láo theo ngôn ngữ văn khoa của nó, rằng: “Đấy là một hình phạt mà Đấng tối cao muốn chúng ta biết thế nào là tai họa và phải biết đến uy danh Ngài” – Tư đã nhất mực lìa bỏ quê nhà.
Cái thằng văn khoa đại học sau đó ít lâu, bị động viên vào trường Thủ Đức; ra trường võ bị mang lon chuẩn úy, xớn xác lên biên giới đụng một trận chiến có xe tăng trọng pháo, rồi máu tự trong cái người nó phọt ra, cái đầu trên cần cổ tự gãy lìa. Hôm mang cậu văn khoa về tống táng, Tư khôi hài nghĩ: “Không ai nấu cao cái khung xương có chữ nghĩa. Nếu mà đem xác cốt bao người chết vì khổ nạn đạn bom lìa chia bắc-nam, mà nấu cao như cao trâu bò, rồi giả dạng cao hổ cốt bán ra thế giới. Khoản lợi nhuận thu vào có khi trùng tu được thân phận hẩm hiu hàng bao con người đang sống lây lất đó đây. Nhân nghĩa ở chỗ, nấu cao xương người chết nuôi người sống.”

II.
Việc lìa bỏ quê nhà, nơi có chôn cái rốn nhau còn máu sơ sinh lúc lọt lòng mẹ, là nỗi đau khôn cùng, nhưng Tư hiểu là không thể nào sống thêm một ngày trên quê hương đã rặt màu địa ngục, tâm linh què quặt, bám trôi trập trùng cơn mơ không đầu đuôi. Không thể lê lếch trong một hoang tàn chỉ thấy toàn nghĩa địa, trống rỗng vì thủy thần tàn độc đã cuốn sạch nguồn sống, chiến chinh đã thổi trôi tất cả mầm tươi. Nơi đây, giờ này, đi bao dặm đường cũng khó tìm một nụ hoa, nụ cười. Chú nhớ rõ đêm buồn bã. Trời đất trở dạ, gió rao báo bão. Sóng biển đông dội về những chấn động lạ thường. Từ xóm trên lão Truyện mang cây đèn bão xuống báo cho Tư biết đài phát thanh đang loan tin có một cơn bão lớn, có tên là Isis.
Trời tháng mười luôn gió mưa. Là tình chung giữa trời với người, nghĩ vậy, nên Tư chẳng lo lắng gì cho lắm. Đài khí tượng lâu lâu phóng ra vài cái tin giật gân có bão, bão đang tới. Ngư dân vội lao thuyển vào bờ, gồng gánh của cải con cái lên đồi nương. Rồi chả thấy một cơn bão dữ nào cả. Thành quen. Cho nên đêm ấy Tư ngủ ngon, khi bên ngoài trời đất đang mai phục bão lũ.
Gần sáng, Tư tức tốc thức giấc vì cơn nước trút đổ ác liệt chưa từng thấy. Mưa như sấm nổ trên mái nhà. Gió tứ bề điên rít. Như từ đâu lòng núi, từ đáy biển, dưới sâu ruột dạ địa cầu bão gió nứt toạt ra. Cả vườn cây bị nhổ gốc. Kèo cột rui mái đứt tung. Cái núi cái sông cái mặt đất vững chắc bây giờ điên đảo. Cái bồ lúa nặng chịch bốc nhảy như con bò điên.
Một màu trắng nước ngập kín không gian. Những chiếc xuồng lẻ loi băng qua con đường cái quan để tải người cứu nạn. Đám lính trấn giữ cái lô cốt đầu cầu bỏ cầu. Tất cả trèo lên đỉnh một ngọn ôm súng đợi trực thăng đến tiếp cứu. Xế chiều, đã bắt đầu nhìn ra có những xác chết trôi lềnh bềnh giữa dòng.
Tư ngồi vào cái thúng chai cùng vợ con chèo về chân đồi cao khi nước đã ngập đến mái tranh nhà, vào khoảng hai giờ chiều. Bất ngờ, thúng và người qua chỗ nước xoáy bị lật úp. Tư ôm chặt đứa con, bơi một tay chống chỏi với sức nước. Người vợ trôi nhanh.
Mấy ngày sau khi cơn lụt đã rã, Tư mới có đất để chôn người chung thủy. Không ai dám khâm liệm cái xác đã bốc mùi. Chú cầm cây gậy khều khều vào cái xác. Người đàn bà như được làm bằng một thứ đồ bột nhão ghê ghê. Tư phải can đảm lắm mới làm được cái việc quấn vải cái xác nhão, bó ngoài bằng một chiếc chiếu, thay cho áo quan. Chú bệu bạo nói mình ơi mình, khổ ải quá mình ơi, ông trời ổng giết mình chứ tui có bao giờ phụ tình. Ngày nay mỗi lần nhớ vợ xưa, chú Tư ra quán cóc uống một ly rượu đế Gò đen. Mùi nồng vị cay có thể làm phai cái mùi dĩ vãng âm âm thịt người.

*
Chôn vợ xong, Tư gửi đứa con sống sót cho Trại tế bần của Phật giáo nuôi dưỡng. Bán vội mấy thửa ruộng, thu vén ít của cải, lên đồi thăm mộ tổ tiên.Tư khấn vái, con đi là đi luôn, bái biệt đất đai cỏ mộ.
Thật ra Tư không là một người vô đạo. Mấy năm trước chính phủ kêu gọi đi lập nghiệp ở khu dinh điền Bình Tuy, hoặc đến vùng Quảng Phú của Buôn Mê Thuột, những nơi ấy đất đai phì nhiêu, dân chúng thưa thớt, điều kiện làm ăn dễ dàng, chính phủ sẽ tài trợ toàn bộ cái sống cho hai năm đầu lập nghiệp. Dễ sống quá. Vậy mà Tư nhất định không chịu rời bỏ quê nhà. Vì lưu luyến vườn rau cây cải, còn nghĩa vụ hương khói ông bà. Ra đi, chỉ nhớ ngọn gió nồm, cái nắng hanh Trung Việt đủ ray rứt tấc lòng. Nhưng ngày nay sự thế quá khắt khe. Cái chết đã tìm mọi cách đến với con người rồi. Không chết vì lý tưởng thì cũng ngỏm vì đếch có lý tưởng. Không chết vì ôn dịch thì cũng mòn dần với ám ảnh, kỷ niệm trong tâm can.
Ngày lên đường Tư buồn đứt bóng. Muốn ôm gốc cây gòn cây cau mà tâm sự. Chú xuống cuối xóm ngồi bên đứa cháu gái, con Xìn, khóc mùi mẫn. Xìn ơi, đời tao chưa bao giờ tao khóc. Hồi đi lính thợ ở bên tây bị mấy thằng tây đen say rượu rượt đánh, tao còn dám đánh lại, cháu à tao chưa bao giờ biết khóc.
Con Xìn, đứa cháu gái, ngồi thái thịt bò. Được lát nào nó cho ngay vào nồi nước đang sôi. Nó nuốt cái thứ thịt tai tái. Nó đói. Nắng mùa đông buồn vợi. Gió mù nắng lùa trên con đường quê heo hút.

III.
Một chiều, Tư đón chuyến xe muộn, ra Đà Nẵng. Trọ lại một đêm. Đèn ra-đa của quân đội Mỹ trên đỉnh Sơn Chà buồn lạ. Một đám lửa lẻ loi giữa đêm đen. Một con mắt soi thầm, tìm thù trong đêm quê nhà.
Trong tịch lặng phố phường giờ giới nghiêm, những tiếng rú gầm từ loạt phóng pháo cơ cất cánh rời phi trường. Tiếng phản lực cơ xa dần qua bên kia đèo Hải vân, hướng về phương bắc để trút bom xuống xóm làng, phố thị. Xe nhà binh chuyển bánh, cuộc hành quân về hướng ngoại ô. Đêm quê nhà đã rất tối tăm, bị chiếm đoạt bởi những hoang mị, hủy diệt.
Hôm sau Tư lên xe vào Nam. Đến Qui Nhơn trời vừa tối. Nhìn núi Tây trùng trùng hoàng hôn Tư muốn khóc. Buồn hơn cả thưở xưa xa, thời đệ nhị thế chiến, khi được quân đội Pháp đưa tới vùng biên giới xa lạ trong chiến tranh Pháp Đức. Hồi ấy chú là tên lính, mang danh lính-thợ-da-vàng, đi góp máu trong thân phận con dân xứ thuộc địa, phục vụ vì Đất Mẹ da trắng.

*
Sài gòn. Tư khăn gói vào trọ tại nhà một người quen biết tại Ngã tư Bảy Hiền. Lại tủi thân một lần nữa. Những người bà con xứ Quảng đã khôn ngoan rời quê hương sớm, bây giờ đã có cơ ngơi, ai nấy giàu có. Hàng khung cửi dệt vải máy chạy lanh canh, rộn rã suốt ngày cũng là một thứ ngôn ngữ mỉa mai sự lạc loài muộn màng của chú. Buổi trưa cùng một người bạn ra quán cóc ngồi uống chai la de, Tư nổi khùng chưởi đổng:
“Đ.m. hồi kia hay vầy tao ở bên Pháp. Biết số phận đi đâu cũng làm phu phen thà tao làm phu phen trên bến tàu xa lắc. Ở bên đó tao kham không nổi cái nhìn kể cả của tụi da trắng, tao mới về. Con tàu há mõm nhả tao ra ở bờ biển Đà Nẵng. Hồi này cách mạng thành công. Tao nắm nắm tay đưa lên ngang mái đầu chào cái chào Kách mệnh. Nhưng rồi đâu có được sống trọn vẹn. Số phận là cái hột súc sắc bụm tay đổ loong coong trong canh bạc. Bây giờ thấy rõ tao là kẻ ngoại lai. Đi đâu bây giờ. Tao chỉ là một tên cu ly trên năm mươi tuổi đầu.”
Tư làm thợ hồ. Từ đấy có cái tên Tư thợ Hồ thay cho tên cúng cơm Tư Bằng. Tư không chú trọng đến cái danh xưng. Chú nói người ta là vĩ nhân, là văn nhân, thi sĩ mới chọn một cái tên rồi giữ gìn tên tuổi. Mình vô danh, gọi gì chả được. Có khi mất cái tên là mất bớt đi một nỗi tủi nhục.
Tư cũng lịch sự, thông thạo nhiều thứ lắm, bởi đã từng sống bên tây mấy năm. Chú kể, thuở lưu lạc có một con đầm mê chú. Đấy là một con đầm lùn có phần điếc lác. Nằm chung với mụ đầm, chú như mắt kẹt giữa một bị thịt. Bây giờ ngồi trong quán cóc Bảy Hiền, Tư hãy còn nghe phảng phất mùi con đầm lùn điếc chen lẫn cái mùi bò Iris. Chỉ khác, là mùi một con vật nữ trần truồng trên giường ngủ với mùi một con vật chết trần trụi chỗ đầm lầy.

*
Mùi thịt và màu dĩ vãng là hai ám ảnh đeo đẳng Tư thợ hồ. Ngày làm ăn vất vả, đêm quái mị, hình ảnh hai người vợ, qua hai thời kỳ, lại hiện ra. Con đầm lùn có lần bị rượt đánh nằm sòng sượt, hai đùi vế trắng nõn, trên bến tàu vì tội trộm cắp. Cũng là một thây ma còn thở trong đáy cùng mạt rệp xã hội. Lại hiện ra trong mơ mị của Tư người vợ quê nhà thiếu quan quách…Trời nắng trong, trời kim tuyến Iris. Nàng trong chiếu bó, lướt thướt, bay bổng. Láng nhẫy cái chết trôi. Lầy nhầy bùn nước, như kem thoa mặt thoa tay. Hai con mắt chết trôi hai con ốc ngâm lâu ngày trong bùn… Tư lại mơ thấy người em trai chết trận trên đồi mộ cỏ may đất khô trắng màu sữa. Một nghìn chín trăm bốn sáu Pháp trở lại Đông dương, một chín bốn bảy, người em trai vác xẻng cuốc đi đào đường tiêu thổ kháng chiến. Nắng cháy bãi cát khô dài hàng trăm cây số, như một cái sa mạc nhỏ địa đầu xứ Quảng. Một vùng đất mẹ còm cõi tình nguyện sống với nước non. Người em trai theo đoàn người hát vang tiếng hát, bị máy bay Pháp bắn chết, cái xác nằm ngon lành trên một vũng máu tươi… Tư thấy hết, mơ suốt dài trong lòng bóng tối… Lại nghe âm vang la hoảng kêu cứu dưới gầm cầu nước lũ. Người cùng súc vật bị cuốn đi, trôi từ tốn, nhẹ nhàng như những cành khô. Những ghe mành nát tan khi Iris gầm thét…
Nửa khuya, Tư thợ hồ đứng sau hè nhà nhìn lên bầu trời Sài gòn. Ánh đèn nhấp nhô những lửa ma hoang. Chú ngậm ngùi khôn xiết. Xa lạ, biến đổi, lùi xa trong mơ hoặc. Dịch chuyển từ vực sâu hôm kia lên đỉnh trơ hôm nay. Tư nhận ra một điều:
“Sàigòn không phải là nơi dung thân của chú. Sàigòn cháy. Oái ăm thay, chú tìm đến Sàigòn trong khẩn thiết, một cần thiết nương tựa; không là tình cờ đi qua. Sàigòn, của chia rẽ, xuống cấp, của bao mầm đau số phận chinh chiến. Sài gòn cơn bụi của rã tan tro tàn”.
*
Một đêm, cái cảm giác phiêu dạt tới rợn người, giục giã Tư thợ hồ quy cố hương. Chú biết, việc quy hồi lúc này không là việc dễ dàng. Quê nhà cũng như cuộc đời chú: đi từ kiệt quệ này tới sụp đổ kia, từ lẻ loi buồn tẻ đến hoang tàn.
Tư lên Viện Hoá Đạo thăm đứa con mấy năm trước được các nhà sư mang vào nuôi dưỡng. Qua Thị Nghè thăm người bà con. Nghe hỏi:
“ Về để mà chết hà? Máu lửa tràn lan”.
“ Thà chết cũng cam”.
“Chết là ra đất. Vậy thì thành bụi đất phương nào chả được, há phải về quê?”

IV.
Máy bay bay vào địa phận Trung Việt. Trời mù trắng những mây. Trường sơn núi liền núi. Tư muốn được chết. Mong máy bay bị pháo cao xạ trong lòng núi bắn nổ tung. Vì chút gì che chắn mà xưa kia ta sống sót trong cuộc thế chiến thứ hai, dưới gót giày tàn bạo của thần tử ?
Sau cùng Tư cũng đã đặt bước chân tần ngần lên con đường dẫn về nơi tuổi nhỏ. Đó là một tỉnh lộ băng ngang qua con đường xuyên Việt, khởi đầu từ một làng cát biển, hướng về miệt nguồn. Ai về nhắn với nậu nguồn/ Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên. Xa xa một cái xóm nhỏ. Làng xưa đây. Một màu xanh héo của lá pha vàng, tương phản với khoảng cát trắng bao quanh.

*
Tư không còn nhận ra người quen biết ở Gò Đậu. Quân viễn chinh đã có mặt cùng khắp, dựng đồn lũy. Con đường máu trong núi rừng đã mở ra tới tận đồng bằng, vào trong lòng thành phố. Quân kháng chiến giờ đây không còn phục kích với những trái nổ lẻ loi, những trận đánh nhỏ cỡ tiểu đội. Mà là những trận chiến cỡ sư đoàn. Gò Đậu đã là cái bãi thử lửa. Máy bay đã thả hàng trăm tấn bom để tàn phá một khoảng núi rừng bên dưới sâu trong đất, là người.
Tìm kiếm không rõ ràng, nhưng Tư quả là đang đi tìm.
Làng trên đã là căn cứ lính ngoại quốc. Xóm dưới quần một bầy xe tăng. Xe ủi đất nằm chờ sớm mai ủi nốt những rừng thưa còn lại. Rừng đồi bạch hóa. Nơi đầu cầu, bọn lính nước ngoài có trắng có đen đứng gác. Không còn dấu vết cái lô cốt nhỏ nhoi từng nổi trôi trong mùa lũ Iris. Mà là một đồn lũy mênh mông kẽm gai, rào, mìn, trại lính. Cái đình làng còn lại một đống gạch vụn.
Tư nhớ con Xìn quá đỗi. Nhớ cái miệng thiếu nữ mười lăm gặm hạnh phúc là những lát thịt bò chết vừa trụng qua một lớp nước sôi.
*
Đời đổi thay do nhu cầu có mặt đám lính viễn chinh. Rất tạm bợ. Nhưng vô cùng nhộn nhịp. Quán cà phê, tiệm rượu, nhà hàng gái đĩ, tiệm giặt ủi. Bọn lính trắng đen nâu vàng đi lại xí lô xí là. Súng ống đầy người. Bầy gái quê ăn vận đơn sơ trong co ro quang gánh. Bọn gái thị thành đến đây vơ vét thời cơ, hở ngực phành mông.
Ngồi trên nền nhà thờ xưa trụi trơ. Chiều lung nắng. Tư khóc. Ngọn đồi nhỏ, nơi an nghỉ của tổ tiên, không còn một mộ bia, không phảng phất một dấu tích nào hương khói xưa. Đầy dấu xích xe tăng xe ủi đất. Người ta đã ủi sạch những mả mồ cây trái để tạo quãng trống, ngăn chặn những cuộc chuyển quân của bên kia. Trên con sông quê, chỉ lẻ loi vài chiếc đò ngang được lệnh phải cập ngay vào bến. Lính viễn chinh kiểm soát từng người, trong đám thôn dân. Sau cuộc kiểm soát, một đôi người tình nghi bị bắt, bị đưa về đồn. Ít khi thấy họ trở ra từ đồn lũy.
Tư lại hoảng loạn. Muốn đón xe trở về Đà Nẵng.
Muộn rồi. Đêm đen.
Những loạt súng sắc lạnh nổ vang. Tư bị một toán lính chặn lại xét hỏi. Chúng ném Tư lên xe chở về đồn. Sáng hôm sau, tại phòng an ninh Tư phải cung khai lý lịch. Lúc xẩm tối, khi ngang qua khoảng sân sau của doanh trại, tình cờ Tư nhận ra một khuôn mặt quen quen. Ôi, con Xìn. Tư kinh ngạc. Vì sao Xìn có mặt trong cái chốn hổ mang này. Mà sao Xìn đẫy đà, đẹp ra một cách lạ lùng.
Cô Xìn chợt thấy Tư, ngỡ ngàng một thoáng, rồi nhận ra người thân yêu, cô khóc òa. Cô ôm ngang hông người chú già nua, dắt chú vào phòng.
Phòng cư trú quân nhân là một căn hầm cá nhân được thiết lập kiên cố dành cho mỗi sĩ quan, từ đại úy trở lên. Chung quanh có hàng bao cát chất kín. Có một cửa lớn, vừa một người lọt qua, để ra vào. Một cửa nhỏ là lỗ châu mai. Đêm ấy trời trăng. Qua lỗ châu mai, mờ ảo những hàng kẽm gai chằng chịt, màu vàng trăng chen một trời sương buồn tẻ.
Xa nhau quá lâu. Bao là dâu bể. Cô cháu gái, bụng mang một cái thai đã nặng nề, cứ khóc tấm tức. Cô Xìn tâm sự bao la chuyện đời. Cô kể:
“Chú ôi, hôm ấy làm sao mà súng nổ nhiều quá, làm sao mà khói lửa thiêu đốt không chừa một cái gì, đốt ngay cả thịt da trẻ em. Cuộc đụng độ xảy ra từ hai giờ đêm hôm trước tới nửa buổi sáng hôm sau giữa lính viễn chinh và quân bên kia. Mờ sáng, đã thấy xác người rách nát, máu đỏ con đường bụi. Cháu cùng đám đông chạy lên đường cái quan thì gặp một đoàn xe tăng Mỹ. Một đám bà con hoảng loạn chạy ngược về xóm thì đụng phải một giàn súng cối và nhiều toán quân nón cối, ngụy trang cây lá đầy người. Máy bay từng đàn bay đến thả bom lửa tràn ngập. Cháu té sấp trên bờ mương nước. Sau đó bị lùa cùng rất đông thường dân vào trong cái đồn xa lạ này đây”.
Tư hỏi:
“Nhưng làm sao cháu không bị bắn bị tù, mà lại ở tình trạng này. Chú thấy cháu có vẻ sung túc, đẹp đẽ ra là nghĩa làm sao?
“ Chú ôi chuyện còn dài lắm. Một gái quê như cháu mà ôm ngủ với một người ngoại quốc. Cái bụng này, cái thai này, rồi cũng cho ra đời một đứa con lai. Nó là một nửa máu nửa thịt của cháu chú ôi. Thế này, hôm ấy cháu được đưa về đồn. Một ông Đại úy viễn chinh xét hỏi mọi người. Tới phiên cháu thì ông tách riêng ra. Buổi tối, ông đưa cháu vào phòng, cái phòng ôn dịch này đây, ông bảo ông thích cháu, bảo lãnh cho cháu. Chú ôi cháu phải làm sao? Ông nâng niu chìu chuộng cháu lắm. Ông viễn chinh bảo khi nào giải ngũ ông sẽ đem cháu ra đi, và là vợ suốt đời. Cháu rất cảm cái ơn cứu tử của ông viễn chinh. Nhưng thấy kỳ kỳ. Mà cháu…sợ quá”.
“Sợ cái gì?
“Sợ nhiều thứ lắm. Sợ cái thai đang nằm trong bụng. Sợ cả cái mơ thấy trong giấc ngủ”.
“Bình tĩnh nào cháu”
“Cháu đã man rợ rồi chú ôi…”

*

Cô Xìn kể lể. Rồi cô nức nở. Cô ôm siết người chú ốm o tội nghiệp. Như ôm một cái phao cứu rỗi. Như ôm một thân tộc mả mồ đã trôi giạt lênh đênh. Cả hai chú cháu lúc đó cùng ngồi trên chiếc giường đệm của Đại úy viễn chinh. Tư bàng hoàng chưa biết nói năng ra làm sao. Thế nào mà giải được cái tình thế oái ăm, mà chênh vênh, mà tuyệt bất ngờ.
Trăng vẫn rơ rỡ ngoài bãi hoang. Cỏ úa quấn quanh những hàng kẽm gai đen rỉ. Một vài đám sáng hỏa châu về khuya trôi minh mang, lờ đờ trong trời bạc. Một trời quê hương đang bị đoạt hồn.
Bỗng ông sĩ quan viễn chinh xuất hiện ngay bậc cửa. Cô gái thả người chú ra, và nói:
“Chồng cháu đó. Anh không biết nói tiếng Việt.”
Giọng cô khá nhẹ nhàng, thân ái. Nhưng liền đó, người viễn chinh nhấc ngang mũi súng, khuôn mặt lạnh lùng. Và, một loạt đạn nổ dòn. Nổ thẳng vào người cô gái và người chú già nua…

Cung Tích Biền
1968 – đọc lại 2008.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Chín 20191:02 CH(Xem: 17163)
Cùng với câu thở than đời người ngắn ngủi, bàn tay hắn đáp xuống trên đùi chị, nhẹ nhàng như chiếc lá rụng xuống thảm cỏ mượt mà. Cái miệng hắn không ngừng bài giảng thuyết của nhà truyền giáo đang cố đưa ra những giáo điều mê hoặc, “Bao lâu này tôi mơ tưởng được một người đàn bà ghen vì mình như thế mà không gặp. Tôi yêu cơn ghen của chị; cho tôi phần còn lại của cơn ghen đó đi. Quên anh ấy đi. Tôi có bà con ở Vancouver, hai đứa mình bay qua đó lập nghiệp. Cho tôi xin tình yêu của chị, cho tôi xin phần còn lại của cái ghen tuông mờ mắt của chị. Chị đã dành cho anh ấy quá đủ rồi. Anh ấy đã hưởng trọn vẹn cơn ghen đầu mùa. Chị cho tôi cơn ghen cuối mùa này đi. Tôi yêu chị mà! Chị yêu lại tôi nghe... yêu tôi nghe...”
23 Tháng Chín 201911:43 CH(Xem: 18649)
Nhà em có 4 chị em gái. Chị hai Tím có vẻ đẹp sắc cạnh, rạng rỡ, tính tình lại ương ngạnh, gai góc cứng đầu. Từ nhỏ đôi mắt 1 mí đã xếch ngược và đôi môi cong cớn hay lý sự dỗi hờn. Cái tên Lê An Đậu Tím của chị là đề tài của một vùng, một trường, một thời và của một truyện ngắn em đã viết.
21 Tháng Chín 20196:18 CH(Xem: 18252)
Trong thời gian tôi ở trại, hắn luôn gởi đồ thăm nuôi cho tôi qua tay ông Thái trưởng tù. Lần nào tới tay tôi cũng bị tay Thái xén bớt ngay trước mặt tôi nhưng biết làm sao. Thời ấy mỗi cử mỗi động đều bị rà soát mà hắn là một cán bộ công an còn tôi lại là một phạm nhân. Rồi tôi theo bạn tù chuyển lên Quang Hiển để lao động, hắn cũng theo lên, cũng gởi đồ cho tôi. Xin cho tôi được làm đầu bếp, em tôi lùa vịt, công việc nhẹ nhàng hơn các người tù khác. Nhưng sau tôi khẳng khái cương quyết không nhận tình thân của hắn dành cho tôi và không muốn gặp hắn nữa. Chúng tôi lại xa nhau...
21 Tháng Chín 201912:15 SA(Xem: 19348)
Hắn bị đụng xe vào buổi chiều và đưa vào phòng cấp cứu của một bệnh viện huyện.Hắn hôn mê từ đó cho đến sáng hôm sau mới hồi sức nhưng vẫn ở trong trạng thái mê tĩnh. Đôi mắt khẻ lay động, cơ thân muốn rướn lên nhưng có một sức mạnh vô hình trì níu lại, đôi môi khô khốc, hắn khao khát được một vài giọt nước , tôi bón cho hắn từng giọt từng giọt và tay luôn nắm bóp trên vầng trán, vùng ngực gây cho hắn cảm giác êm dịu, ru vào giấc ngủ chập chờn.
11 Tháng Chín 201910:25 CH(Xem: 18530)
Đầu tiên là triệu chứng khó thở kéo dài nhiều giờ. Đó là điều khó hiểu với một người không phải là cuờng tráng song sức khỏe có thể được gọi là sung mãn như ông. Bác sĩ riêng đã loại trừ ngay cái bệnh buộc phải lập tức i-zô-lê( biệt lập), hoành hành bởi con vi trùng mang tên một nhà bác học Đức. Nơi ông ở cũng chưa đến nỗi phải suốt ngày đeo mõm chó cả khi ra đường lẫn ở trong nhà như thành phố Bác - Ki nọ mù mịt bụi khói gần đây mà ông thường thấy trên phim, ảnh.
08 Tháng Chín 201911:54 CH(Xem: 18895)
“Ối... giời đất ôi!” Tiếng rú hoảng kinh của người đàn bà dưới khoang thuyền vọng lên, tiếng được tiếng mất trong gió lộng khi con sóng hung hãn đập mạnh vào lớp vỏ kim loại bên mạn thuyền. Chiếc du thuyền chao chọng, lắc lư như món đồ chơi trong tay đứa trẻ tinh nghịch. Nước văng tung tóe lên cả mặt sàn gỗ đầy vân. Người đàn ông một tay bám chặt lấy cột buồm, một tay rà lại những nút buộc chiếc áo phao mà gió gắn chặt vào người. “Không sao đâu,” người đàn bà dán mình vào chỗ ngồi ởđuôi con tàu, chiếc áo phao màu cam sáng rực dưới ánh sáng mờ ảo của một ngày vừa chớm. Chị nghểnh cổ nói vọng xuống khoang. “Du thuyền chứ có phải ghe đánh cá của ngư dân đâu.” Rồi chị lẩm bẩm,“Đến siêu bão cũng chả sao.” “Cứu mẹ con cháu với!” Tiếng gào khan của một người đàn bà văng vẳng trong tiếng hú của gió. Người đàn ông nghểnh cổ, nhìn xuyên qua màn hơi nước mờ đục. “Hình như có người kêu cứu.” Anh ta nói lớn. Trái tim quýnh quáng trong lồng ngực. Người đàn bà trong áo phao màu cam hỏi
06 Tháng Chín 20193:37 CH(Xem: 18691)
Camie là người nữ đồng nghiệp duy nhất trong số các đồng nghiệp nam làm chung một group gồm chỉ có ba người : hắn , Dick và Dan, cả ba đều là người Việt Nam. Camie là người Philippines , nước da trắng, mắt to, tóc dài, thân hình thon gọn, eo nhỏ mông to. Nhiều lần lão Dick thèm thuồng nói với hắn - Camie sống cô đơn độc thân một mình đang khao khát một tình yêu.
28 Tháng Tám 20193:20 CH(Xem: 16750)
Ở đây, tất cả nhân viên, dù là người địa phương tình nguyện đến làm việc, hay nhân viên chính thức, đều mặc cùng một bộ đồng phục màu xám, áo vest xám, váy đầm hình chữ A màu xám, áo chemise lụa trắng bên trong. Trắng và xám. Đó là 2 màu chủ đạo sau buổi sáng 5.46' ngày 17 tháng 1 năm 1995.
19 Tháng Tám 20193:54 CH(Xem: 18833)
Tôi đứng một mình bên cửa sổ. Đêm lặng. Ngọn đèn hành lang rọi xuống chậu cây chi mai đang nở hoa trắng, tạo thành một quầng sáng đơn độc. Tôi vốn có thói quen đọc sách khuya. Những lúc đêm khuya thanh vắng, khi người đời đã chìm trong mộng mị, là lúc tôi thả hồn mình lang thang với những con chữ. Đọc đến một lúc nào đấy, cảm thấy đầu mình u mê, tôi hay tới bên cửa sổ, đứng khoanh tay nhìn ra ngoài hiên. Tôi thường hay nhìn một cách vô định vào bóng cây sấu già đang chập chờn cô đơn khua lá. Như là một phép dưỡng sinh cho mắt. Từ hôm có chậu chi mai thì hồn tôi trút cả vào chậu cây nhỏ xinh đang nở hoa trắng xoá. Tôi say mê ngắm. Tôi đang mê đắm vẻ đẹp của một loài hoa đã từng được bao thi nhân từ cổ chí kim ca tụng…
16 Tháng Tám 201910:07 CH(Xem: 20445)
Gần 5 năm mới nhận được tác phẩm thứ hai của Nguyễn Trung. Truyện của ông rất đặc biệt, với lối hành văn cuốn hút, mạch truyện chuyển đổi gọn nhanh như những đoạn phim ngắn. Không khí truyện huyền ảo nhưng rất gần với xã hội chúng ta đang sống. Mời quý độc giả và văn hữu cùng vào không gian truyện “Rắn xanh chấm đỏ” của nhà văn Nguyễn Trung. Tạp Chí Hợp Lưu