- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

MEKONG-CỬU LONG 2011 NHÌN XA NỬA THẾ KỶ TỚI [2]

06 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 93093)


PHÁC THẢO DỰ ÁN ĐÊ BIỂN ĐA DỤNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

A POSSE AD ESSE / TỪ KHẢ NĂNG TỚI HIỆN THỰC

 

LỜI MỞ ĐẦU_ Đây là bài viết thứ hai, trong số 3 bài viết về tương lai Đồng Bằng Sông Cửu Long “Nhìn Xa Nửa Thế Kỷ Tới”. Bài thứ nhất, như một tổng quan, với nhận định: thủy điện vẫn là nguồn năng lượng rẻ nhất, do nhu cầu phát triển, những bước khai thác thủy điện trên sông Mekong, cho dù mau hay chậm, trước hoặc sau, thì đó vẫn là một tiến trình không thể đảo nghịch trong vòng nửa thế kỷ tới.

Do áp lực mạnh mẽ của các quốc gia thuộc Lưu Vực Dưới sông Mekong, kể cả cộng đồng quốc tế, cho dù Lào đã đã có quyết định tạm ngưng khởi công xây con đập thủy điện Xayaburi 1,260 MW, là con đập thủy điện dòng chính đầu tiên trong dự án 9 con đập của Lào; một dấu mốc được International Rivers Network / IRN và các nhà hoạt động môi sinh coi như một “thắng lợi”, nhưng cũng để thấy rằng đây chỉ là bước trì hoãn tạm thời.

Nếu so với hai con đập thượng nguồn Tiểu Loan / Xiaowan 4,500 MW và Nọa Trác Độ/ Nuozhadu 5,850 MW của Trung Quốc, mỗi con đập có công xuất trên dưới lớn hơn 5 lần con đập Xayaburi, và riêng đập Tiểu Loan có hồ chứa lớn hơn cả tổng dung tích 11 con đập hạ lưu cộng lại, nhưng Bắc Kinh thì vẫn cứ ngang nhiên triển khai kế hoạch khai thác thủy điện sông Mekong của họ cho do dù có phản ứng chống đối của dư luận quốc tế. Sự khác biệt rất rõ ràng: Trung Quốc là một nước lớn với lý lẽ của kẻ mạnh và đầy tham vọng vươn lên như một siêu cường, Lào chỉ là một quốc gia nhược tiểu nghèo nàn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài trợ từ bên ngoài để có thể thực hiện được các dự án đập của mình.

Khi mà Việt Nam là một trong những quốc gia lớn tiếng nhất chống dự án đập Xayaburi nhưng Hà Nội sẽ ăn làm sao nói làm sao, khi mà chính một công ty nhà nước Petrovietnam Power Co. lại đứng tên tham gia vào dự án xây con đập thủy điện Luang Prabang 1,410 MW trên dòng chính sông Mekong lớn hơn cả con đập Xayaburi. Để tiến tới xây dựng một “Tinh thần Sông Mekong / Mekong Spirit” Việt Nam không thể có một thứ tiêu chuẩn nước đôi/ double standard như vậy.

LƯỢNG GIÁ VỀ MỘT CHÍNH SÁCH NGẮN HẠN

Cho dù ý thức được tiến trình không thể đảo nghịch trong nỗ lực khai thác tiềm năng thủy điện sông Mekong, nhưng chúng ta vẫn có nhu cầu phải đòi hỏi sự trong sáng và minh bạch / transparency, và những lượng giá môi sinh đúng mức cho những bước khai thác bền vững / sustainable development.

Chúng ta rất cần thêm thời gian, bằng những cuộc vận động không những trong phạm vi vùng mà cả với dư luận quốc tế. Kinh nghiệm tích cực với con đập thủy điện Xayaburi đáng là một bài học. Nhưng cũng để thấy có những hạn chế và khác biệt. Thay vì là con đập Xayaburi, giả thiết nếu đó là một trong 2 con đập Sambor hay Stung Treng của Cam Bốt với ông Thủ tướng là ông Hun Sen, thì liệu có đạt được một thỏa hiệp trì hoãn như đối với chánh phủ Vạn Tượng hay không, khi mà ông Hun Sen luôn luôn khẳng định rằng các con đập thủy điện thượng nguồn không có gì phải quan tâm; tất cả là do khí thải carbon/ carbon emissions và thay đổi khí hậu/ climate change. (6)

LƯỢNG GIÁ VỀ MỘT CHIẾN LƯỢC DÀI HẠN

Do những nguyên nhân tích lũy, [1] Những con đập thượng nguồn, chủ yếu là các con đập Bậc thềm Vân Nam của Trung Quốc với những hồ chứa khổng lồ làm giảm lưu lượng nước, giảm lượng phù sa xuống Đồng Bằng Sông Cửu Long, khiến không chỉ nước mặn càng lấn sâu vào vùng châu thổ mà còn tạo ra hiện tượng sạt lở như với mũi Cà Mau hiện nay; [2] Hiện tượng hâm nóng toàn cầu / global warming do tăng lượng khí thải CO2 từ than đá và dầu khí, làm tan dần những tảng băng nơi hai cực Bắc và Nam, cùng với khối băng tuyết Cao nguyên Tây Tạng còn được gọi là Cực Thứ Ba / Third Pole ; hậu quả là nước biển ngày càng dâng cao. Theo các nghiên cứu về biến đổi khí hậu, mực nước biển có thể dâng cao từ 0. 8 m tới 1.5m vào năm 2100. Chỉ cần nước biển dâng cao 1mét, thì 90% diện tích Đồng Bằng Sông Cửu Long sẽ chìm dưới mực nước biển.

ntvinh_mekong2_hinh_1-content

[HÌNH 1] Đồng Bằng Sông Cửu Long sẽ chìm dưới biển mặn năm 2100 khi mực nước biển dâng cao 1 mét.

 

Trước viễn tượng một Đồng Bằng Sông Cửu Long – vốn là vựa lúa nuôi sống cả nước, không chỉ thiếu nguồn nước ngọt mà còn bị sạt lở và sẽ chìm trong biển mặn; Việt Nam sẽ không có một chọn lựa nào khác hơn là hình thành một dự án vĩ mô / mega-project xây dựng [1] một con đê biển đa dụng ngăn mặn và; [2] hai hồ chứa nước ngọt từ hai vùng trũng thiên nhiên là Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau. (3)

Bài viết thứ hai này, chủ yếu giới thiệu khái quát về một dự án phác thảo Con Đê Biển Đa Dụng Ngăn Mặn cho vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tuy là bước rất sơ khởi, chỉ mới là khái niệm / conceptual kỹ thuật nhưng đây là công trình trí tuệ của anh Ngô Minh Triết, P.E. – một Kỹ sư Cấu trúc / Structural Engineer (1), với sự cộng tác của anh Phạm Phan Long, P.E. trong Nhóm Bạn Cửu Long; anh PP Long cũng thành viên sáng lập Hội Sinh Thái Việt / Việt Ecology Foundation.

MỤC TIÊU CỦA ĐÊ BIỂN ĐA DỤNG

Như tên gọi ban đầu, mục tiêu chính của đê biển là ngăn mặn do hậu quả nước biển dâng cao và do lưu lượng “dòng chảy tối thiểu” từ thượng nguồn xuống Đồng Bằng Sông Cửu Long càng ngày càng sút giảm.

Do hệ thống đê biển không nằm trên đất liền mà xa bờ, nên không có tổn phí phải mua lại đất / land acquisition , mà có khả năng tạo những hồ chứa trong vùng đệm giữa đê biển và bờ biển thiên nhiên hiện tại. Với thời gian, do nguồn nước đổ xuống từ thượng nguồn, cộng với lượng nước mưa, nước trong vùng đệm sẽ bớt mặn, tiềm năng khai thác chăn nuôi thủy sản như các loại cua biển, tôm xú trong vùng nước lợ / brackish water với nguồn lợi thu về sẽ rất lớn.

Con đê biển không những có hiệu quả tránh sạt lở giữ được đất, mà còn tạo thêm những vùng đất mới / land reclamation, tăng diện tích canh tác và cả triển vọng hình thành những đô thị mới. Phải xem đây là một trong những nguồn lợi tức lớn và lâu dài để trả về một cách xứng đáng cho nguồn vốn đầu tư rất lớn để xây dựng công trình.

Con đê biển cũng sẽ là một hệ thống Xa Lộ Vòng Đai của Đồng Bằng Sông Cửu Long. Theo kỹ sư Ngô Minh Triết, bề mặt đê biển có thể rộng tới 25 m, đủ cho một xa lộ hai chiều, không chỉ cần thiết để bảo quản công trình, mà cả có tầm quan trọng chiến lược về giao thông, kinh tế và quốc phòng, khi mà Biển Đông đã và đang là vùng tranh chấp gay gắt với nước lớn Trung Quốc.

ntvinh_mekong2_hinh_2-content

[HÌNH 2] Đồng Bằng Sông Cửu Long và Đê Biển Ngăn Mặn từ độ sâu 3 mét: đường chỉ màu đỏ.

 

Gió và mặt trời cũng sẽ là nguồn năng lượng thiên nhiên phong phú có thể khai thác trên các vùng đất mới phía trong theo suốt chiều dài con đê biển. Và không thể không nghĩ tới một nguồn lợi tức đáng kể khác là Du lịch Sinh thái / Ecotourism, với các môn thể thao trên nước, như trượt nước, đua thuyền, câu cá / sport fishing …

TÍNH KHẢ THI CỦA DỰ ÁN VÀ PHÁC HỌA MÔ HÌNH ĐÊ BIỂN

 Cấu tạo địa chất đáy biển vùng cận duyên quanh Đồng Bằng Sông Cửu Long: 65% là đất phù sa / silk, 25% là đất sét / clay, và phần còn lại là cát. Vùng cận duyên hướng ra biển không sâu và khá phẳng, có độ dốc từ 0.8:1000 tại các vùng cửa sông , 5.0:1000 nơi vùng mũi Cà Mau.

Dự trù đê biển sẽ nằm trong vùng cận duyên có độ sâu trung bình là 3 mét, chiều dài đê biển từ Gò Công vòng qua mũi Cà Mau tới Hà Tiên, tính theo hình ảnh vệ tinh là khoảng 600 km.

Đê biển được nối lại với nhau nơi mỗi cửa sông bằng những công trình cầu để bảo đảm tàu bè vẫn dễ dàng di chuyển hai chiều từ biển vào sông lên tới tận Nam Vang, do Mekong là một con sông quốc tế / international river.

Kỹ thuật và nhân công chủ yếu là từ địa phương. Nguyên liệu chính là đất sét, cát từ đáy biển được chứa trong những bọc / geotextile containers (một loại bao polyester rất bền và thấm nước), sau đó được gia cố bằng đá nhỏ với concrete xi- măng. Cát từ biển cũng có thể dùng để tạo những bờ biển mới phía ngoài con đê.

ntvinh_mekong2_hinh_3-content

[HÌNH 3] Sơ Đồ Đê Biển Cắt Thẳng, từ trái_ hướng ĐBSCL sang phải_ hướng biển, xa lộ hai chiều, đường bảo quản, tường chắn sóng bão 200 năm.

 

Các giang cảng nội địa như cảng Cần Thơ sẽ được chuyển rời ra phía ngoài con đê. Sẽ có những “xa lộ đường dẫn” như hình nan quạt từ đê biển đi vào các cửa sông, tới những trung tâm thị tứ và các trọng điểm của Đồng Bằng Sông Cửu Long. Rút ngắn được thời gian giao thông sẽ là một cải thiện đáng kể cho các bước phát triển kinh tế thịnh vượng của Đồng Bằng Sông Cửu Long.

Ngay từ ban đầu, ý thức được rằng đây là một công trình không chỉ có quy mô quốc gia, mà cả cho toàn Lưu vực Lớn Sông Mekong / Greater Mekong Subregion, với thời gian là những đơn vị “thập niên”, đòi hỏi một ngân sách rất lớn hàng chục tỉ USD, không chỉ từ ngân sách quốc gia, mà cần tới sự tài trợ của của các nước Mỹ, Nhật, Úc… và các cơ quan tài chánh quốc tế: WB/ World Bank, ADB/ Asia Development Bank … Theo ước tính sơ khởi, số tiền đầu tư cho dự án Đê Biền Chống Mặn Đồng Bằng Sông Cửu Long chắc hắn sẽ ít hơn so với số vốn 56 tỷ USD mà nhà nước định tài trợ cho siêu dự án Đường Sắt Cao Tốc.

Và quan trọng hơn hết là cần có một “think tank” tập hợp tất cả “chất xám” từ mọi lãnh vực chuyên môn từ thủy học, quan trắc địa chất, thay đổi khí hậu, môi sinh…của mọi tầng lớp người Việt trong nước cũng như bên ngoài, cùng với đội ngũ chuyên viên có kinh nghiệm từ hai quốc gia như Hòa Lan Vùng Đất Thấp và Hàn Quốc với công trình Saemageum và cũng không thể không nói tới Ủy Hội Sông Mississippi / Mississippi River Commission, từng có rất nhiều kinh nghiệm về đê điều và đang là tổ chức kết nghĩa với Sông Mekong từ tháng 7, 2009 do sáng kiến của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. (5)

MỘT VIỆT NAM SỐNG CÒN

Nếu biết rằng, nửa sau của thế kỷ 21 này, sẽ không còn Đồng Bằng Sông Cửu Long một vựa lúa nuôi sống cả nước, Sông Tiền Sông Hậu sẽ là hai con sông chết vì thiếu nguồn nước ngọt do những con đập thượng nguồn nhưng lại dư độ mặn do Biển Đông dâng cao, với hậu quả là sẽ không còn một Nền Văn Minh Miệt Vườn, không còn một phần hình hài trẻ trung và đầy sức sống của cả nước; trước kịch bản ấy, không thể không khởi động làm một điều gì và lời giải đáp chắc chắn đòi hỏi rất nhiều trí tuệ, khởi đi từ tinh thần sáng tạo, hình thành một “ý tưởng lớn” cùng với ý chí và quyết tâm thực hiện. Và cũng để nhắc lại, là sẽ không có cái giá để mặc cả và thời gian thì có thể hơn giới hạn một đời người, để bảo vệ vùng đất định mệnh nhưng là một linh địa của dân tộc Việt.

Từ một đất nước trong suốt chiều dài lịch sử, luôn luôn chìm đắm trong những cuộc chiến tranh, cũng là biện minh cho sự thiếu vắng những công trình kỳ vĩ. Đây chính là thời kỳ để đất nước Việt Nam chuyển từ một nền “Văn Hóa Chiến Tranh / Culture of War” sang một nền “Văn Hóa Hòa Bình/ Culture of Peace” cùng với bước đầu nhận thức phải thực hiện một công trình xây dựng không chỉ có tính cách “sống còn” nhưng tự nó đã là một kỳ quan về “kiến trúc sinh thái” trong Thiên Niên Kỷ của dân tộc Việt.

NGUỒN AN NINH LƯƠNG THỰC THẾ GIỚI

Việt Nam Thái Lan cho đến nay vẫn là hai nước sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới. Nhưng điều nghịch lý là nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long thì vẫn sống “dưới mức nghèo khó” và không những thế, con cháu họ còn đứng trước thảm họa “mất đất sống”. Với dân số trên trái đất này ngày càng gia tăng theo cấp số nhân, và các nguồn lương thực quan trọng lại đang bị đe dọa trầm trọng bởi chuỗi những thảm họa do chính con người gây ra. Riêng với Đồng Bằng Sông Cửu Long, thảm họa không chỉ đến từ phương bắc do những con đập thượng nguồn Trung Quốc, từ phía đông nam do biển mặn dâng cao hậu quả của hâm nóng toàn cầu. Cứu Đồng Bằng Sông Cửu Long, không chỉ là cứu một phần đất đai màu mỡ của Việt Nam, nhưng cũng là cứu một vựa lúa quan trọng của thế giới. Hiểu như vậy, thì sự tham dự hỗ trợ của nhiều quốc gia khác trong công trình Con Đê Biển Đa Dụng Chống Mặn là một nghĩa vụ quốc tế trong thế kỷ toàn cầu hóa / globalization.

 

NGÔ THẾ VINH

California, 05-05-2011


 

 

THAM KHẢO:

1/ Đê Biển Chống Mặn Đồng Bằng Sông Cửu Long, Ngô Minh Triết, P.E.; Mekong Sea Dyke, A Concept Paper / Draft, 04, 2011

2/ Thực Trạng Bi Đát của Lưu Vực Sông Mekong, Sáng Kiến Lancang-Mekong, Phạm Phan Long, P.E., Viet Ecology Foundation 1, 2011, www.vietecology.org/Article.aspx/Article/64

3/ Mekong-Cửu Long 2011 Nhìn Xa Nửa Thế Kỷ Tới, Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation, tháng 1, 2011, www.vietecology.org/Article.aspx/Article/63

4/ US – Mekong Basin Cooperation follows ASEAN Meeting, Vientiane, Laos PDR, Jul 30, 2009, www.mrcmekong.org

5/ Mekong-Mississippi Hai Dòng Sông Kết Nghĩa: Những Tương Đồng và Khác Biệt, Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation, tháng 8, 2009, www.vietecology.org/Article.aspx/Article/58

6/ Hunsen backed China’s often-criticized development plans for the Mekong River, Phnom Penh, Jun 29, 2005, (AFP)

7/ Hun Sen denies China Dams Impacts; Thomas Miller & Cheang Sokha; Phnom Penh Post, Nov 17, 2010

8/ The Mekong, Environment and Development, Hiroshi Hori, United Nations, University Press, Tokyo 2000

9/ Vùng Đất Ngập Đồng Tháp Mười, Trần Ngươn Phiêu, Thế Kỷ 21 số 219, tháng 7, 2007

10/ On the Mekong, A Better Way. Qin Hui, Economic Observer. Where China and the World Discuss the Environment. December 25, 2010.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Tám 20211:42 SA(Xem: 13041)
Nhu cầu tìm hiểu sử học càng cấp thiết hơn khi cuộc cách mạng truyền thông của thế kỷ XX đã giúp phổ biến đủ loại “ngụy sử” qua các dạng thức tuyên truyền trắng, đen hoặc xám của các chính phủ, chế độ và phe nhóm, tôn giáo. Một nữ sinh viên ban Thạc sĩ Việt du học ở Liên bang Mỹ mới đây—khi được đọc những tư liệu văn khố về Hồ Chí Minh (một trong những tên giả của Nguyễn Sinh Côn, 1892-1969)—đã vội vã phản kháng là xin đừng “phá hoại lịch sử.” Thứ lịch sử mà người nữ sinh viên trên nói đến, thực ra, chỉ là những bài giảng lịch sử giáo điều, đúc khuôn tại Việt Nam. Một thứ truyền đơn, khẩu hiệu, không hơn không kém, của phe thắng cuộc đang cai trị bằng còng sắt và kỹ thuật tra tấn của an ninh, mật vụ dưới họng súng quân đội—nên đã tạo ra hiện tượng đáng buồn về tình trạng giảng dạy môn sử tại Việt Nam hiện nay; cũng như những lập luận “rẻ rách sinh con chuột” hay hờn oán, trách móc, ở hải ngoại.(Chính Đạo)
30 Tháng Tám 202012:31 SA(Xem: 16511)
1/6/1802 [2/5 Nhâm Tuất]: Nguyễn Chủng lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long. (ĐNTLTB, I, 11-12, 1962:230-264, & ĐNTLCB, I, I, 2:1778-1802, 1963:27, & XVII, 3:1802-1809, 1963:23-24) Ban chiếu: Kinh Xuân Thu trọng nghĩa nhất thống là để chính danh nghĩa khi mở đầu. Từ tiên thái vương ta dựng nền ở miền Nam, thần truyền, thánh nối đã 200 năm. Gần đây Tây Sơn nổi loạn, vận nhà Lê đã hết, hơn vài mươi năm trong nước không có chính thống. Năm Canh Tí [1780] ta mới ở thành Gia Định, được các tướng sĩ suy tôn, đã lên ngôi vương để giữ lòng người. Duy đô cũ còn chưa phục, nên còn theo niên hiệu cũ [nhà Lê] (ĐNTLCB, I, XVII, 3:1802-1809, 1963:23-24)
30 Tháng Tám 202012:15 SA(Xem: 19895)
Giai đoạn ngắn ngủi từ ngày 9-10/3/1945, khi Nhật chấm dứt chính quyền Bảo hộ Pháp tại Đông Dương bằng chiến dịch Meigo, tới ngày 21/8/1945, khi guồng máy quân sự Nhật bị sụp đổ là một trong những thời kỳ quan trọng trong lịch sử cận đại. Trong giai đoạn này, hai chính phủ “độc lập” ra đời, chấm dứt hơn tám mươi năm Pháp xâm chiếm, và kích động một cuộc cách mạng xã hội mà đặc điểm là hiện tượng Việt-Nam-Hóa [Vietnamization] tất cả các cấu trúc xã hội. (1)
04 Tháng Giêng 20205:40 CH(Xem: 19039)
Những tư liệu về thuở thiếu thời của Petrus Key đầy chi tiết trái ngược nhau. Năm 1958, Viên Đài & Nguyễn Đồng cho rằng thân phụ Trương Vĩnh Ký là “Lãnh binh Truơng Chánh Thi,” chết năm 1845 trong khi tùng sự ở Nam Vang (Bách Khoa [Saigon], số 40, [1/9/1958], tr. 43); năm 1846 mẹ (Nguyễn Thị Châu) ủy thác cho một giáo sĩ người Pháp có tên Việt là “cố Long” (tr. 44); năm 1847, Nguyễn Phước Thời (1847-1883), niên hiệu Tự Đức, lên ngôi, cấm đạo gắt gao phải chạy sang Cao Miên [Kampuchea]; năm 11 tuổi nói được 5 thứ tiếng (tr. 44); năm 1852 [sic] được cố Long hướng dẫn sang Đại chủng viện Penang, và ghé qua Sài Gòn gặp mẹ được vài giờ (tr. 44). Tại Penang học tiếng Anh, Nhật, Ấn (tr. 45). Năm 1858 mẹ chết, về Cái Mơn thọ tang. Ngày 28/12/1860 [sic], được Giám mục Dominique Lefèbvre giới thiệu “giúp việc cho Đại úy thủy quân” [sic] Jauréguiberry (tr. 45). Chữ “capitaine” của Pháp ở đây là hạm trưởng, không phải “đại úy” như quân chủng bộ binh.
24 Tháng Mười 20199:21 CH(Xem: 20179)
Hạnh phúc biết bao cho một người không có quá khứ, hay một dân tộc không có lịch sử—nhiều người quan niệm như thế. Nhưng con người, mỗi người trong chúng ta, đều có quá khứ, vui, buồn hay buồn vui trộn lẫn. Một dân tộc luôn luôn có lịch sử, vinh quang, tủi buồn, hay vinh nhục đủ mùi vị. Quá khứ luôn luôn là tấm gương cho mỗi người tự sửa mình, rút cho mình một kinh nghiệm sống, chuẩn bị cải thiện tương lai. Lịch sử một quốc gia, nếu được ghi chép trung thực, là kho tàng kinh nghiệm cho việc ích quốc, lợi dân, và phát huy tình nhân loại cho một thế giới đáng sống hơn.
20 Tháng Tám 20199:04 CH(Xem: 27601)
Petrus Key, sau này đổi thành Petrus Trương Vĩnh Ký, P.J.B. Trương Vĩnh Ký, Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký, hay Petrus Ký, thường được coi như một văn hào của miền Nam dưới thời Pháp thuộc. Có người xưng tụng Petrus Key như “đại ái quốc,” “đại học giả,” “bác học,” thông thạo tới “26 thứ tiếng.” Dưới thời Pháp thuộc (1859-1945, 1949-1955), rồi Cộng Hòa Nam Kỳ Quốc (1/6/1946-15/5/1948), Quốc Gia Việt Nam (1/7/1949-26/10/1955), và Việt Nam Cộng Hòa (26/10/1955-30/4/1975), người ta lấy tên Petrus Key (Ký) đặt cho trường trung học công lập [lycée] lớn nhất ở Sài Gòn, đúc tượng để ghi công lao, v.. v... danh nhân này. Với chương trình giáo dục tổng quát nhiều hạn chế (nhắm mục đích ngu dân [obscuranticisme] và ràng buộc trâu ngựa [cơ mi]),[1] được đặt tên cho trường công lập lớn nhất miền Nam là vinh dự không nhỏ; vì nơi đây chỉ có con ông cháu cha cùng những học sinh xuất sắc được thu nhận, qua các kỳ thi tuyển khó khăn.
28 Tháng Hai 20192:35 CH(Xem: 36576)
Việt Nam cổ thời chỉ được ghi phụ chép trong cổ sử Trung Hoa như các xứ man di phương Nam rồi Tây Nam từng đến xin cống lễ, hay liên quan đến chiến công xâm lược, thực và giá lẫn lộn, của các triều đại—dưới các chiêu bài giáo hóa, phép thờ nước lớn, và/hay chinh phạt. Lịch sử thành văn của Việt Nam thỉ chỉ xuất hiện từ đời Trần (10[20]/1/1226-23/3/1400)—tức Đại Việt Sử Ký (1272) của Bảng Nhãn Lê Văn Hưu (1230-1322)—nhưng đã tuyệt bản, chỉ còn những mảnh vụn sao chép và sửa đổi theo ý thích của các dòng họ cai trị mà Phó bảng Phan Chu Trinh từng chỉ trích là “hủ Nho” [ultra conservative confucianist].
08 Tháng Giêng 20192:06 CH(Xem: 26218)
Trung Hoa sau 30 năm tự cô lập hầu chấn chỉnh nội bộ, thiết lập một chế độ “Cộng Sản” theo kiểu mẫu Stalinist/Maoist—nhưng thực chất, hiểu và dịch sai thuật ngữ “communism” [công hữu] mà Karl Marx-Engels đã hoang tưởng về “xã hội công hữu nguyên thủy.” Thượng tuần tháng 2/1979, ghé Tokyo trên đường về nước, Tiểu Bình tuyên bố “Cần dạy cho Việt Nam [thân Nga, chống Tàu-Mỹ của Lê Duẩn-Phan Đình Khải] một bài học.”
30 Tháng Mười Một 20187:32 CH(Xem: 32535)
Pétrus Key (sau này trở thành Trương Vĩnh Ký) thường được ca ngợi là một học giả lớn miền Nam. Ông có công quảng bá loại tiếng Việt mới, tức quốc ngữ hiện nay mà các giáo sĩ Portugal và Espania đã sáng chế vào thế kỷ XVII. Tuy nhiên, Petrus Key cũng đóng một vai trò đáng kể trong cuộc xâm lăng Việt Nam của Pháp. Ông là một trong những thông ngôn người Việt đầu tiên hợp tác với Pháp, bên cạnh những giáo sĩ thuộc Hội Truyền Giáo Hải Ngoại đã tiềm phục trong vương quốc Đại Nam từ nhiều thế kỷ.
22 Tháng Năm 20181:14 CH(Xem: 33737)
Hạnh phúc biết bao cho một người không có quá khứ, hay một dân tộc không có lịch sử—nhiều người quan niệm như thế. Nhưng con người, mỗi người trong chúng ta, đều có quá khứ, vui, buồn hay vui buồn trộn lẫn. Một dân tộc luôn luôn có lịch sử, vinh quang, tủi buồn, hay vinh nhục đủ mùi vị. Quá khứ luôn luôn là tấm gương cho mỗi người tự sửa mình, rút cho mình một kinh nghiệm sống, chuẩn bị cải thiện tương lai. Lịch sử một quốc gia, nếu được ghi chép trung thực, là kho tàng kinh nghiệm cho việc ích quốc, lợi dân, và phát huy tình nhân loại cho một thế giới đáng sống hơn.