- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

CON ĐƯỜNG NĂM XƯA

05 Tháng Bảy 202410:17 CH(Xem: 14489)
Chiec Xe Dau Tien

Chiếc xe Ford Failane 66 đầu tiên lái từ Seattle
xuống Orange County, CA năm 1977


 CON ĐƯỜNG NĂM XƯA

Nguyễn Công Khanh

 



Năm tới 2025, người Việt gốc Mỹ sẽ kỷ niệm 50 năm định cư tại Hoa Kỳ. Chúng tôi cũng sẽ có thêm một kỷ niệm định cư tại Seattle đươc nửa thế kỷ. Thời gian không còn nhiều sao tôi cứ băn khoăn không hiểu mọi người sẽ chuẩn bị tổ chức ra sao?

Gần nửa thế kỷ đã qua, những người đến sau, những người mới qua, không tưởng tượng được mọi chuyện đã có thể thay đổi như ngày hôm nay: Một “Việt Nam Mới”. Bây giờ, tiệm ăn, siêu thị bán đầy đủ thực phẩm Việt Nam không thiếu, sẵn sàng tại các khu người Việt. Trong các Mall, giữa các dân tạp chủng đông đúc luôn luôn nghe được một giọng lạ nổi lên nhưng lại rất quen thuộc thì chắc là có người Việt trong đám đó rồi.

Hồi những năm 1975, 76, cố tìm một chai nước mắm cũng khó. Cả thành phố chỉ có một tiệm tạp hóa Tầu nhỏ. Thế mà chỉ mười mấy năm sau khi có làn sóng vượt biển, những người “boat people” đã đến, và họ đã làm nên lịch sử những “Little Saigon”, tôi tin tưởng như thế. Chúng ta hãy cám ơn họ. Họ có chí mạo hiểm và khả năng sinh tồn dù trong một xã hội không có kỹ năng thích hợp. Những người đến từ 1975, họ là quân nhân, công chức không có kinh nghiệm về doanh nghiệp. Nhưng trên cả mọi điều, tất cả họ đều là những người đã giữ vững màu cờ. Con cháu họ đã tiến một bước khá xa trong dòng sông chính về nhiều phương diện như kinh tế, văn hóa, kỹ thuật, chính trị và quân sự…

*

Nhớ lại, chiều tối cuối cùng ở Việt Nam, chúng tôi may mắn vào được quân cảng và leo lên được một chiến hạm đang nằm ụ, con tầu há mồm có tên là Thị Nại 502 rời Saigon. Khi đuổi theo được hạm đội tại Côn Sơn thì nhận được lệnh buông súng. Cả hạm đội được lệnh trực chỉ Subic Bay. Vì là con tầu cuối cùng nên đã phải vớt bao nhiêu thuyền bám theo, phải hứng cả một trực thăng và một máy bay T28 tuyệt vọng bay vòng quanh con tầu. Chạy được không bao lâu thì tầu hỏng máy, một chiến hạm khác phải quay lại kéo ròng rã 7 ngày sau mới đến được thay vì chỉ cần 2 ngày. Trước khi vào cảng, con tầu bị xóa tên và hạ cờ. Cả tầu gần 5,000 người đứng lên hát bài quốc ca vĩnh biệt, lá cờ vàng trên cao từ từ hạ xuống lần cuối cùng, với những giọt nước chẩy dòng trên má. Chính phủ Phi Luật Tân e ngại không cho dân tị nạn ở lại nên ngay chiều hôm đó họ chuyển mọi người sang một thương thuyền, 4 ngày sau tới đảo Guam. Chúng tôi ở trên đảo khoảng 2 tháng, qua ba trại  Orotee, Asan, Anderson, cuối cùng lên máy bay vào Mỹ và tạm cư tại Camp Pendleton Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, nam Cali. Gần 200,000 dân tị nạn nằm chờ trong các lều vải trải dài như báp úp, trước khi tìm nơi định cư.

Văn phòng trại gọi chúng tôi lên phỏng vấn làm thủ tục và khai sơ lược tiểu sử của mình để họ tìm người người bảo trợ cho thích hợp. Tôi khai vừa là công chức vừa là quân đội, người phỏng vấn nói, thôi tạm quên các chức vụ đó đi rồi hỏi tôi các “hobbies” của tôi là gì, tôi trả lời thích cây cỏ và làm vườn và bà vợ tôi khai thích nấu ăn. Mấy ngày sau, họ gọi lên văn phòng báo tin là đã tìm được người bảo trợ cho chúng tôi ở New York. Người này là một triệu phú, có du thuyền. Tôi sẽ có công việc làm vườn và thỉnh thoảng đi theo để dọn dẹp du thuyền. Còn vợ tôi thì làm phụ bếp. Tôi rất thích đi du lịch và thích biển, nghe thấy thế cũng ham, nhưng sau khi bàn bạc với nhau, không muốn xa họ hàng và bạn bè mà ai cũng chờ đi Cali nắng ấm, nên từ chối. Chờ mãi vào Cali không đến lượt vì quá đông và sau cùng Thống Đốc Cali có lệnh ngưng nhận dân tị nạn nên chúng tôi theo bà con chuyển lên Seattle.  Vậy là xém chút nữa hai vợ chồng tôi đã thành dân “Ô-sin”.  Cũng thật đáng tiếc …

Nghĩ lại cái thuở đất trời còn “hồng hoang” đó, mọi chuyện đối với người tị nạn đều bắt đầu từ số không. Gia đình tôi không có duyên được ở Cali. Tuy vậy, chúng tôi nhiều lần đã loay hoay nghĩ cách tìm về vùng nắng ấm để có cơ hội gặp lại những người bạn ngày xưa.

Hồi đó, khi di chuyển xa từ tiểu bang này sang tiểu bang khác, rất ít người dùng máy bay mà thường lái xe mất nhiều ngày đường. Vì thế con đường số 5 rất quen thuộc với tôi. Tôi đã lái xe dọc trên con đường này, đi lên đi xuống nhiều lần. Con đường huyết mạch chạy theo ven Thái Bình Dương từ Bắc xuống Nam của nước Mỹ dài 1381 miles. Con đường nối hai thành phố ngoại biên Vancouver B.C. của Canada và Tijuana của Mễ Tây Cơ. Con đường nối liền những thành phố mà có đông người Mỹ gốc Việt định cư và họ đã thành lập một dẫy Little Saigon. Từ Seattle qua Portland qua San Francisco, Sacramento, San Jose đến thủ phủ của người Việt tị nạn Orange County và San Diego.

Qua tháng đầu tiên, tôi có được bằng lái xe. Nhà thờ bảo trợ quyên góp giúp tôi $400 để mua xe. Ông mục sư đưa tôi đi tìm xe, gia đình tôi 2 vợ chồng, 5 đứa con, tổng cộng 7 người.  Với số tiền đó và số người đó, ông phải tìm những xe cỡ lớn, nhưng tôi thấy đều “cà cộ” nên tôi ngần ngừ lấy cớ không quen lái xe lớn và tốn xăng. Cuối cùng chọn được một chiếc Ford Fairlane 6 máy đời 66, trông tạm được, nhưng họ đòi $600. Tôi xin góp thêm $200 tiền dành dụm để có chiếc xe vừa ý.  

Có xe tôi chạy khắp vùng xung quanh thăm họ hàng và những người bạn mới đến. Mùa đông đến, trời mưa tuyết như lông ngỗng, tôi hào hứng cho cả gia đình lên xe phóng trên đường để hưởng những trận tuyết đầu tiên trong đời, mà không biết đến là có thể trơn trượt lao vào lề đường gây tai nạn.

Chạy được mấy tháng, xe bị cháy máy. Chúng tôi đã mua lầm chiếc xe xấu, may có một ông trong nhà thờ tình nguyện giúp làm máy lại. Ông mục sư và tôi phải cùng nhau hì hục mài xy-lanh và các pistons. Thật tội nghiệp ông, suốt mấy chục năm  sau chúng tôi vẫn luôn đến thăm ông bà và khi họ mất chúng tôi đều có mặt trong đám tang.  

Xe của chúng tôi chạy lại tốt như mới. Hè năm đó, 1977, theo tiếng gọi của bạn bè, tôi quyết định làm một chuyến du Nam. Gia đình 7 người lại thêm một người cháu trai cũng đòi đi theo. Lúc đó, tôi không lo cho cái xe, không thấy ngại đường dài hơn ngàn miles mà cũng không nghĩ tới phải trải qua những con đèo dài lên dốc đến trăm cây số, và những cái dốc có độ cao hơn mặt biển 5,000 ft.

Cái xe nhỏ chở 8 nhân mạng cùng hành lý, không máy lạnh, Trời Cali nắng rát, đi qua những sa mạc, sờ vào thành xe đến bỏng tay. Nhiều quãng lên đèo, leo dốc nước trong bình xe bốc hơi mù mịt, nghe thấy cả tiếng nước sôi ùng ục. Tôi đã phải dừng lại nhiều lần, rest area nào chúng tôi cũng nghỉ để cho máy nguội và đổ thêm nước vào bình.

Cả cái quãng đường trường ấy, chúng tôi phải lái xe ba ngày. Tôi có một ý nghĩ như một số ít người nghĩ, đi không cần nhanh để đến, cái hạnh phúc và cái vui là ở dọc đường.  Nhiều khi lái trên những chặng đường dài chỉ có xe mình chạy, dừng lại ở những trạm nghỉ chỉ thấy có một xe mình đậu, thấy cái mênh mông của trời đất. Tôi nhớ từng rest area, những chỗ nghỉ có dòng suối như Klamath trên đèo Grand Pass, chỗ nghỉ gần biên giới Oregon nhìn chiều hoàng hôn phía núi  Mount Shasta, buổi sáng thức dậy được bơi trong hồ bơi của  Motel 6, ở một thị trấn bên đường có cái tên “Lost City” không thể quên…

Xe của tôi cũng qua khỏi được cái đèo cao Bakersfield, rồi cũng đến được Bolsa. Tôi lái thẳng đến một tiệm phở, khi ăn xong tôi đi ra trước cửa tiệm đứng ngóng. Đúng vào ngày cuối tuần, quả nhiên, không lâu mà cũng không hẹn, tôi gặp lại được một số bạn, cả những người từ nhiều năm không gặp ở Saigon. Chúng tôi ôm lấy nhau, cảm động và mừng rỡ. Thì ra chúng tôi cần có nhau.

Khi trở lại Seattle, tôi dùng đường 101 để tránh leo dốc hai cái đèo Bakerfield và Grand Pass. Đường 101 dọc theo biển Cali, tuyệt đẹp qua những khu du lịch và một rừng cây cổ thụ Sequoia, có một gốc cây cổ thụ được đục thành lối đi mà xe hơi có thể lái qua. Khi đến Cresscent City thì tôi lái quặt vào đường số 5 và đổ dốc xuống đèo Grand Pass vào Oregon về Seattle xanh mát.

*


Sau này việc làm đã yên ổn, mấy đứa con tôi vẫn còn trong thời trung học, tôi đi tìm mua một xe khác.  Đến Dealer, thấy một cái xe Mercury Station Wagon full size mới đang trưng bầy, 8 máy, rộng rãi hai hàng ghế sau có thể ngả xuống làm giường đủ chỗ cho 5 đứa con nằm.  Trên mui có thể để đươc nhiều hành lý. Tôi rất thích và đi xung quanh và mở cửa ngồi vào bên trong ngắm hoài. Một người bán xe của dealer biết ý đến gạ tôi và như cố ý đẩy cái xe cho tôi. Có lẽ họ đã để xe nằm choán chỗ quá lâu, họ đưa giấy tờ cho tôi biết họ bán không lời, và lái xe chiếc xe mới đó theo tôi về nhà. 

Vài năm sau, một lần nữa tôi lại đổi và mua một xe van, ghế trong xe cũng có thể ngả thành giường nằm. Ngoài ra còn có một sink để rửa mặt, một tủ lạnh nhỏ và ghế ngồi lái xe như phi công ngồi lái máy bay.

Nhờ hai cái xe mới này tôi lái xe mở rộng quanh vùng và tiếp tục mỗi kỳ hè đưa vợ con xuống thăm Cali. Lần đầu tiên, cảm động, tay lái rung rung khi nhìn thấy những bảng “Little Saigon” trên xa lộ chỉ dẫn exit vào khu thương mại của người Việt.

Ngoài đường số 5, từ Bắc Cali xuống khu Bolsa còn có 3 con đường song song khác, tôi cũng đã lái đưa gia đình trên các con đường này. Đường 99, một ngã rẽ của đường số 5 đi qua Fresno và phải vượt đèo Bakersfield. Đường 405, qua ngả San Francisco, San José  đông và vui. Con đường 101 dọc theo biển Cali, tuyệt đẹp.

*


Rồi đến khi mấy đứa con vào đại học, lên ở trong “dorm”, tôi không còn có thể tập họp chúng để làm những cuộc hành trình như trước nữa. Tôi giữ chiếc xe van mấy năm không có dịp dùng đến và nghĩ đến chuyện phải bán. Khi nhìn chiếc bị lái đi, bỗng nhiên tôi thấy như cuộc đời mình không phải là chỉ giở sang trang mà đang sang một chương mới.

Tôi thấy nhớ và muốn trở lại những con đường năm xưa mình đã đi qua, những rest areas mình đã dừng xe nghỉ, tìm lại những ngày đầu ở Bolsa mà nay nhiều người bạn cũ không còn nữa. Các con tôi đã đủ lông cánh, rời tổ tung cánh đi các phương trời xa. Tôi chờ xem có một đứa con nào ngỏ ý sẽ làm cuộc hành trình như những ngày trước tôi đã bao lần chở chúng, để tôi có dịp đi theo.  Người trẻ thì xoải cánh đi tìm những chân trời mới, người già thì cứ muốn trở ngược lại con đường cũ.

Tết năm ngoái, chúng tôi bay xuống Cali, đi chợ đêm khu Phước Lộc Thọ, đứng giữa đám đông những người cùng tiếng nói, nghe tiếng pháo nổ lác đác đó đây, tự nhiên tôi nhớ lại một Saigon xưa đã mất và thấy một Saigon mới thật gần, đầy hứa hẹn.

Hôm sau ra máy bay trở về, lúc ra khỏi máy bay trời Tây Bắc nắng ấm trở lại, hàng đào bên đường, những nụ hoa đã bắt đầu hé mở…


Nguyễn Công Khanh

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Mười Hai 202411:43 CH(Xem: 11087)
về khơi ngọn lửa trên ngàn / đem chia giấc mộng xoe tàn bóng đêm / ngó mông lên phía đầu thềm / dấu chân xóa một đóa mềm dị hương /
18 Tháng Mười Hai 20246:46 CH(Xem: 9975)
Cuối thập kỉ 60 hay đầu đầu 70 gì đó. Bố tôi, một nhân viên khí tượng tại phi trường Nha trang, có kể lại về câu chuyện về ngày Đại hội không quân của của câc nước Đông Nam Á, mà ông được tham dự. Theo ông, trong các đội bay, ông hết lời tán thưởng đội bay của nước Trung Hoa dân quốc ( Taiwan) đã có những phi trình biễu diễn thật đẹp ngoạn mục, cùng những màn nhào lộn chết người gần như đạt đến đến giới hạn của đỉnh cao sức chịu đựng của phi công chứng tỏ sự dày công tập luyện. Còn về đội tuyển Cao ly, ông nhận xét cùng cái trề môi " Bình thường!"
18 Tháng Mười Hai 20244:42 CH(Xem: 7131)
Cristoforo Borri dành hai chương III và IV, trong Phần II của Ký Sự Đàng Trong để viết về nhân vật mà ông quý trọng và tôn vinh: quan Khám lý Trần Đức Hoà -ân nhân thứ hai của đạo Chúa (sau Minh Đức Vương Thái Phi)- là người đã cứu sống cha Buzomi và mời các giáo sĩ về vùng ông cai trị, năm 1618, trong cơn sóng gió, các giáo sĩ phải lẩn tránh, ông đã cấp nhà ở và dựng nhà thờ cho họ ở Quy Nhơn, tạo ra cơ sở đạo Chúa ở Nước Mặn. Xin tóm tắt lại những sự kiện đã xẩy ra: / Đạo Chúa ở Đàng Trong do cha Buzomi đặt nền móng từ năm 1615, nhờ Minh Đức Vương Thái Phi giúp đỡ và che chở, có được nhà thờ lớn ở Đà Nẵng. Năm 1616, Macao gửi thêm ba thầy giảng người Nhật sang trợ giúp. Năm 1619, cha Buzomi bình phục; quan Khám lý đưa ông trở lại Hội An, các đạo hữu Dòng Tên gặp nhau trong niềm vui khôn tả. Họ quyết định: Cha Pedro Marques ở lại Hội An. Các Cha Buzomi, de Pina, Borri và thầy giảng Bồ, theo quan Khám lý về Quy Nhơn[1].
18 Tháng Mười Hai 20244:02 CH(Xem: 6321)
Kỳ trước, chúng tôi đã trình bày Đời sống thế tục ở Đàng Trong theo sách Ký sự Đàng Trong của Cristoforo Borri. Kỳ này, xin giới thiệu Đời sống tôn giáo ở Đàng Trong qua ngòi bút của Borri, về giai đoạn đầu tiên đạo Chúa được truyền vào nước ta, từ 1615 đến 1622, dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên./ Cristoforo Borri xác định vai trò tiên phong của Dòng Tên / Cristoforo Borri xác định các giáo sĩ Dòng Tên đúng là những người đầu tiên đem đạo Chúa vào Đàng Trong, bằng cách chỉ trích sự bịa đặt trong cuốn sách của một giáo sĩ Y Pha Nho [Hordũnez de Zeballos] kể rằng ông ta đã đến Đàng Trong trước đó, đã rửa tội cho một bà công chúa và nhiều người trong hoàng tộc, mà Borri cho là hoàn toàn hoang tưởng.
18 Tháng Mười Hai 20243:05 CH(Xem: 6115)
Tác phẩm Ký sự Đàng Trong của Cristoforo Borri[1] nguyên bản tiếng Ý, được viết để đệ lên Giáo Hoàng Urbain VIII (1623-1644), theo truyền thống các văn bản của giáo sĩ tường trình với Đức Thánh Cha và Tòa thánh về hiện tình đất nước mà họ đã đến truyền giáo, cũng là cuốn sách đầu tiên của người Âu viết về Đàng Trong, in năm 1631, cung cấp những thông tin giá trị trên ba mặt: lịch sử, tôn giáo và ngôn ngữ. Và ông đã ghi lại những chữ quốc ngữ đầu tiên trong tác phẩm Ký sự Đàng Trong. Giáo sĩ Cristoforo Borri (1583-1632), thông bác nhiều địa hạt, từ sinh vật học đến thiên văn, ngoài việc báo cáo tình hình Đại Việt, có tính cách "gián điệp" cho Tòa Thánh, ông còn yêu mến đất nước này, hòa mình vào đời sống Việt Nam đầu thế kỷ XVII, tìm hiểu xã hội và con người.
18 Tháng Mười Hai 20242:51 SA(Xem: 11583)
Khi ta trầm xuống một dây / Chợt mênh mang thổ vàng ngây ngất tình / Mái chiều / Gờn gợn phúc linh / Bàn tay ái niệm / Cung nghinh thói đời /
18 Tháng Mười Hai 20242:30 SA(Xem: 7415)
Câu chuyện về người Phật tử Việt đầu tiên tại núi Quỳnh Viên (Thạch Hà - Hà Tĩnh) đã được thư tịch cổ nói đến nhiều kể từ đời Trần; và cho đến thời hiện đại, nhiều nhà nghiên cứu sử học, Phật học Việt nam đã cố gắng gỡ bỏ các lớp vỏ huyền thoại để nhất trí khẳng định trên cơ sở khoa học rằng: Núi Quỳnh Viên là có thật, trên đó còn có một ngôi chùa Quỳnh Viên, mà tại đây, Chử Đồng Tử có duyên may gặp một nhà sư tên Phật Quang, được ông ta dạy những bài học đầu tiên về Phật pháp nguyên thủy.
18 Tháng Mười Hai 202412:23 SA(Xem: 11515)
Có phải em về từ bụng mẹ / Câu ca dao rụng trắng bên thềm / Có phải gió về từ nguồn cội / Cho nên mai rụng cánh uyên /
17 Tháng Mười Hai 202411:41 CH(Xem: 8644)
Hiền Mai là một cô gái có học thức và nhan sắc. Cô đang làm trưởng phòng của một đơn vị kinh doanh, thuộc một công ty lớn trong thành phố. Trong những lần họp hành, giới thiệu sản phẩm, chị đã gặp Thành Quy là một chàng trai đẹp trai lịch thiệp. Anh đang làm quản lý tại một công ty khác. Hai người nói chuyện với nhau bắt đầu từ công việc và cảm thấy ngày càng tâm đầu ý hợp. Hiền Mai và Thành Quy tiến tới có những buổi hẹn hò ngọt ngào và tình yêu dành cho nhau ngày càng thắm thiết. Họ đi đến hôn nhân sau hai năm tìm hiểu.
17 Tháng Mười Hai 20246:16 CH(Xem: 13425)
Lời, không hay, và độc / Nói ra, những rủa nguyền / Cuối năm nghe buồn lạ / Không là bản tình ca .