- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Nguyễn Đình Toàn. Mưa Hà Nội

11 Tháng Mười Một 202212:24 SA(Xem: 7958)



LeChieuGiang-NguyenDinhToan
NguyễnĐToàn/LêCGiang 10/21

 

 

Lê Chiều Giang     

Nguyễn Đình Toàn. Mưa Hà Nội   

 

“...Mổ trái tim.

Xem:

Không gì trong đó

Mở đôi bàn tay

Những thứ chẳng còn…”

[ LCG ]

 

Mưa rơi trong màn hình laptop, tôi thèm nghe tiếng mưa. Đêm nay.

Mưa Cali hiếm hoi, cứ như chẳng bao giờ muốn có.

Nhưng dù đã cố gắng cách mấy, tôi vẫn không thể nhận ra cái rì rào ướt át, chút rét mướt của gió đêm, qua những giọt “mưa giả”, ” mưa máy móc”, “ mưa trong computer”.

 

Tôi mong, tôi ước ao tìm cho ra cái sướt mướt của anh Nguyễn Đình Toàn, nỗi nhung

nhớ về những đêm mưa Hà Nội, dù là đêm mưa nho nhỏ, mưa bão bùng, hay mưa dầm suốt hết cả đêm thâu.

Có ai tìm ra “mưa” của những năm xưa Hà Nội trong một Saigon vừa bước đến, một Saigon còn lạ xa? Saigon không ấp ủ những cơn mưa mơ màng tuổi mới lớn, khi Anh Toàn bỏ Hà Nội ra đi.

Mưa Saigon xầm xập, chấp chới trong ánh sáng kinh đô. Mưa ào ào, mưa bạt mạng như tiếng reo vui giữa lòng thành phố với trăm ngàn ánh đèn rực rỡ, yêu kiều.

 

Mưa Saigon chỉ đủ cho Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo… xót xa, tiếc nhớ thêm về những dấu yêu xưa, những kỷ niệm cũ thời sống với Hà Nội.

 

_________

 

 

Nhưng Saigon là của tôi, nơi sanh ra, ngày mới lớn.

Saigon những chiều Thứ Năm. Thoáng trong gió xa xăm có tiếng nói của Nguyễn Đình Toàn dặt dìu, ấm áp như thơ. Âm vang nhẹ rơi trong chút mơ màng của nắng chiều sắp tắt.

Saigon Thứ Năm, bàng bạc văn chương Nguyễn Đình Toàn với “Nhạc Chủ Đề”.

Nhạc như hương thơm rải trong lòng thanh thoát. Chúng tôi, những cô học trò nhỏ, đã thả hồn mơ theo mưa chiều, nắng sớm. Mắt nồng nàn đếm những chiếc lá vàng lao xao rơi rụng trước sân trường.

Saigon mưa vui, nắng hắt. Saigon líu lo.

Saigon. Chết.

 

Năm 1978, Khánh Vân, cô bạn rất đẹp của tôi ra Thanh Đa ngồi than thở. Chúng tôi nói về những lửa than của đời sống khó khăn, bên những bàng hoàng không tưởng, những biến động bất ngờ nhất của quê hương…

Có thêm chị Nguyễn Thị Thụy Vũ và anh Nguyễn Đình Toàn. Bữa cơm chiều với tô canh đổ thêm nhiều nước lã, đã vui hơn. Khánh Vân như góp thêm chút cười nói, chút rộn rã, xôn xao…

 

Cafe Thanh Đa, chúng tôi không thể bỏ sót dù trời đang mưa. Chị Vũ, Khánh Vân và tôi đội nón lá. Anh Toàn và Nghiêu Đề đi với đầu tóc ướt và luôn cả áo ướt.

Những ánh chớp sáng, với ầm ì tiếng sấm vang vọng, cũng không làm chúng tôi sợ hãi. Chị Thuỵ Vũ luôn bước những bước dài vội vã, làm anh Toàn phải réo theo:” Có phải Thuỵ Vũ sợ Tô Thùy Yên đang rượt sau lưng, đuổi bắt lại đó không?…”. Chúng tôi cười đua cùng với tiếng mưa rơi và sấm trời vang động.

 

Khánh Vân có chút ước ao lạ lùng, xin được ngồi giữa trời với Cafe ướt át. Khánh Vân muốn hai đứa tôi tìm lại chút…tuổi thơ. Thuở bé bỏng với những nỗi buồn mông lung, khờ dại. Chúng tôi cứ hay buồn ngang xương, buồn một cách khơi khơi, buồn vô tội vạ mà tưởng như mình sắp chết...

Những mơ màng vẩn vơ, cũng có khi chỉ vì đã có một chiều Thứ Năm nào đó, lỡ nghe qua Đài phát thanh Saigon, có lời “xúi dại" của Nguyễn Đình Toàn.

Lời thiết tha bay theo mưa gió và nắng ấm của đời: “...Hỡi em yêu dấu".

 

Mọi người xếp bàn ghế ngồi hết ngoài trời, dù mưa làm run lạnh.

Chị Vũ mượn guitar, nhưng chủ quán không bằng lòng vì sợ mưa làm hư hỏng. Tôi hát với mưa, tiếng mất tiếng còn bên gió lộng. Vân còn bầy đặt đốt điếu thuốc xin từ anh Nghiêu Đề. Thuốc không cháy, tôi hít hà mùi khét khét, nồng nồng khói của đêm thơm…

 

“...Nếu một mai

Không còn ai đứng bên kia đời

Trông voi vói…”

[ Phạm Duy ]

 

Nỗi buồn suýt chút nữa đã rớt xuống trầm sâu, uẩn ức, nếu không có tiếng thở dài vội vã của anh Toàn:” Trời ơi, thôi đi chứ, mưa ướt và lạnh đến điên người. Hai bạn mà cứ đi tìm “tuổi thơ” cái kiểu này, thì đúng là hai bạn đã giết chết, đã làm mất tiêu chút thoi thóp của “tuổi già” …”

Nhưng tiếng hát vẫn nỉ non, vẫn ngậm ngùi cùng đêm tối.

 

“...Có hay chăng là

Mưa rơi vì chúng ta

Mưa rơi. Và còn rơi

…Mưa rơi bạc đầu ai…”

[Phạm Duy]

 

_____________

 

 

Mưa Hà Nội âm u, mưa Saigon bạc bẽo không màu, trắng xoá.

Cuối cùng gia đình chúng tôi đành vượt thoát khỏi quê hương, vất vả tìm tới San Diego, nơi có chút màu lam chiều thanh tịnh.

 

Nhưng chỉ sau 14 năm, Anh Nghiêu Đề vội vã bỏ hết mọi thứ vui buồn, bỏ luôn cả cuộc đời, ra đi.

“Sống một mình”, chắc chắn phải là người vững vàng và đầy can đảm. Nhưng tôi lơ

mơ, lại thêm chút vụng dại, cộng với cả vội vàng… Loay hoay chút xíu cho “có lệ” với thế gian, cuối cùng tôi đã rời San Diego theo một Nhân duyên mới. Tôi bỏ đi rất xa, tôi đi thật xa và trong 17 năm dài, tôi đã sống ở một nơi… xa lắm.

 

Anh Nguyễn Đình Toàn nhắn tôi về CA trước khi …quá muộn. Từ nơi xa xôi, biết về thăm rất khó, tôi hứa đại 6 tháng nữa. Anh rên rỉ :” Cái hẹn 6 tháng mới trở lại CA, đã là cái hẹn lãng mạn nhất, với đầy đủ sự trễ tràng, có khi còn cộng thêm luôn cả lời thất hứa …”.

 

Nhưng có gì đâu, 5 năm rồi. Và tôi đã nhiều lần ghé thăm Anh.

Con đường dẫn đến nhà Anh đã chẳng ai cần thay tên, đổi họ. California không như Saigon sau 1975. Saigon, nơi “Họ” đã quyết liệt đổi hết tên của những con đường, đổi luôn cả những phố phường xôn xao nhiều quán xá…

Lặng lẽ nhưng đầy tiếc nuối với sự đổi thay liên miên tên của những góc phố, những đường xưa. Anh Nguyễn Đình Toàn chỉ còn biết phàn nàn, buồn bã thở than trong nhạc. Anh Hồ Trường An đã phải nhớ thuộc lòng bản nhạc này trong những tối ngồi với bạn bè bên Làng Báo Chí.

Khi lên máy bay rời Việt Nam năm 1977,  Hồ Trường An mang theo món quà của Nguyễn Đình Toàn gửi tặng hết cả những ai đã phải từ bỏ quê hương, ra đi.

Người đầu tiên hát “ Saigon niềm nhớ không tên” tại Paris là Jenny Mai, và bản nhạc đã phổ biến rộng rãi ngay trên các đài phát thanh VOA và BBC….

Thời gian đó, khi chúng tôi còn quanh quẩn ở Saigon, biết anh Toàn đã nhiều lần bị công an mời lên làm khó dễ…

 

“...Sài Gòn ơi

Đâu những chiều

Vui, buồn khoác áo đi

Tay cầm tay

Nói nhỏ những gì

Những quầy hoa

Quán nhạc đêm về…”

[Nguyễn Đình Toàn]

 

California khi trở lại, tôi đã chẳng “Lạc lối tìm”. Vẫn những bảng đường quen xưa, ngõ cũ, nơi có Chị Thu Hồng và Anh ấm áp đợi chờ mỗi lần tôi hẹn ghé thăm.

Vẫn căn nhà xưa, với những hoa cúc rực rỡ vàng trong sân nắng.

 

Anh và tôi luôn cười vang sau những lần Anh buông lời đanh đá, có khi còn nhuốm thêm chút khắc nghiệt, chút chì chiết với đời. Anh nói xéo, nói thẳng, ghét khơi khơi… Anh bất mãn kinh niên với hết cả loài người và tất cả mọi điều trên thế giới. Mắng mỏ đời mà vô cùng sâu sắc, mỉa mai hết cả và thiên hạ nhưng lại vô cùng dí dỏm, có duyên…

Những câu chuyện chỉ có Nghiêu Đề, Duy Trác, Nguyễn Đình Toàn, Thuỵ Vũ mới thấm thía, mới cay đắng đủ để cùng nhau cười tung cười toé, cười thú vị trong suốt hết cả những năm dài.

 

—--------------------

 

Tôi viết như phục sinh lại chút hình bóng của người đã ra đi, những Nghiêu Đề, Trần Quang Lộc, Nguyễn Đức Sơn, Trần Tuấn Kiệt, Bùi Giáng, Văn Cao, Trương Đình Quế, Ngọc Dũng, Đinh Cường.

Viết cả cho những người còn đang thở. Dù thở dốc, thở hơi dài, hay hơi ngắn: Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Duy Trác, Phạm Thiên Thư.

Saigon của tôi, mờ mờ những kỷ niệm đang dần xa, đang vật vờ chìm khuất.

 Nhưng Saigon vẫn giữ lại hết những chập chờn, những lung linh sáng của rất nhiều gương mặt bàng bạc như chuyện cổ tích, những năm xưa…

 

Duy nhất Anh Nguyễn Đình Toàn. Tôi viết gửi Anh trong phút cuối của đời, khi mà không ai còn đoán ra, không ai còn kịp thấy, đâu là ranh giới của một chấm hết nghiệt ngã. Rất lạnh lùng, lẫn cả tối tăm:

Phút lãng đãng giữa ra đi, và ở lại.

 

+++++

 

Cali không mưa nhiều như tôi hằng mong đợi. Nhưng đêm nay San Diego mưa, mưa nỉ non, mưa thầm thì, mưa to nhỏ.

Mưa mang theo những não nùng, những giá lạnh của khói hương xưa.

 

Tôi đang tìm lại giùm Anh những ướt át hắt hiu, chút âm u buồn, lặng câm và ảm đạm.

Giữ lại hết cả những lo âu, những sợ hãi đầy hoài nghi về nỗi chết.

 

“...Cố thắp cho anh một ngọn đèn

Dù chẳng còn trông mong gì nữa…”

[Nhạc NĐT]

 

Tôi buông lời réo gọi những cơn mưa trút nước, mưa như điên, mưa bạt mạng của Saigon.

Nhưng tôi giữ lại giùm Anh chút mưa gió lê thê, mang mang cái giá rét âm u đầy thơ mộng của những đêm mưa phùn ngày xa xưa. Hà Nội.

 

Lê Chiều Giang

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 90040)
...Chết tuy biết vì sao mình chết, do đâu mình chết mà không làm gì được. Chết một lần dưới làn đạn Tây dương. Chết thêm một lần về tinh thần bởi lòng trung bị khủng hoảng, bị phản bội, ấy là thời đại của những con người như Hoàng Diệu, ấy là những anh hùng cứu nước như Hoàng Diệu...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75836)
Hợp Lưu 112 Xuân Tân Mão 2011 , đến với bạn đọc và văn hữu khắp nơi trong tiết trời lạnh hơn mọi năm. Một năm đã trôi qua với bao biến động trên thế giới ngày nay, và cũng là một năm có nhiều đổi thay nơi quê nhà. Dù đang ở nơi nào, tâm hồn người Việt vẫn luôn hướng về; mong mỏi đổi mới, cải thiện cho một xã hội tốt đẹp hơn. Mùa Xuân là biểu hiệu của khởi đầu và hy vọng, cũng là dịp cho chúng ta suy gẫm và nhìn lại một năm đã qua.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 103978)
...Tôi đến Trường Chu Văn An trên đường Thụy Khuê, vào phía sau sân trường tìm bãi cỏ nhìn qua Hồ Tây để nhớ đến nụ hôn đầu tiên Kiên bỡ ngỡ đặt lên môi Phương trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Bãi cỏ xanh mướt ngập đầu lưu giữ tình yêu đầu tiên của Kiên không còn nữa. Nếu giờ đây, Phương cũng đã đi nước ngoài và lấy chồng ngoại quốc, nụ hôn của Kiên trao cho Phương, chính tôi nhận và giữ hộ...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 87378)
Larsson lìa đời trước khi đứa con tinh thần, bộ tiểu thuyết thuộc loại trinh thám, Millennium Trilogy, gồm ba cuốn, mà ông đã viết vào mỗi tối như một trò giải trí cho thần kinh bớt căng thẳng, ra đời sáu tháng sau khi ông ký giao kèo với một nhà xuất bản Thụy Điển, Norstedts Förlag, nhà xuất bản thứ hai Larsson liên lạc và ký giao kèo, sau khi gửi cho một nhà xuất bản thứ nhất tới hai lần mà gói sách không hề được mở ra.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92864)
Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng Tư 1975, chúng tôi có cái hân hạnh được Công đoàn bảo hiểm Pháp ( Fédération Française des Sociétés d’Assurance ), qua thỏa ước với Bộ Tài chánh CHXHCNVN, gởi về nước cùng với một số nhà giáo Pháp giảng dạy bộ môn Bảo hiểm còn mới này trong trường Đại học Tài chính và Kế toán Hà nội - nay trường đã lột xác trở thành Học viện Tài chính.
14 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 109516)
Về đi thôi nhật ký ngày chân đất Gốc đa già bà kể lá bùa yêu Em ôm giấc thị thành nửa mùa cổ tích Hỏi gió trời sao giấu lá bùa yêu 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 84560)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83596)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75930)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80729)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.