- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

CHÚ VE SẦU

02 Tháng Sáu 20209:59 CH(Xem: 15291)
Ha Giang 1 - UL
Tiếng ve trong mùa hạ - ảnh UL

Ve, loài côn trùng quen thuộc với tôi từ tấm bé, nhưng vì sao lại gọi là ve sầu thì tôi không rõ lắm. Mãi sau này biết sầu, mới dần dà nhận ra (!)

Ngày xưa rất xưa, thời dân làng chỉ nhận tin qua giọng loa vang vang sau tiếng cốc cốc của mỏ làng vào rạng sáng hay lúc chiều sập tối, thủa tôi còn loăng quăng bám chéo áo ngoại ra vườn, tiếng ve đã in vào trí óc non nớt của tôi rồi.

Thời ấy trước nhà thờ họ ngoại của tôi có cây phượng bé tí, chẳng năm nào đủ sức để làm nhiệm vụ trọng đại nhất của mình. Chỉ có những chú ve con, một sáng nắng vàng, bỗng dưng bật lên những âm thanh vui tai đầu tiên, báo cho tôi biết một mùa hè rong chơi lý thú.

Chính tiếng ve đã treo hồn tôi lơ lửng trong khu vườn của ngoại, cho dù gió Lào trưa hè thông thốc thổi, nung quắt queo những đọt tre trổ bông bao quanh vườn nhà. Tôi mê tít hàng mít thẳng tắp cho trái to bằng cái thùng gánh nước của ngoại, những chùm cam Xã Đoài chín ngọt. Và, đáng nhớ nhất, lớp vỏ của loài ve vừa thoát xác, với vết nứt trên lưng, vẫn ngộ nghĩnh bám chặt vào gốc cây!

Lũ ve giúp cho mùa hè của tôi đỡ trống trải. Mấy đứa bạn học không biết làm gì mà hè nào cũng chỉ gặp nhau mấy bữa đầu, rồi sau đó biệt tăm. Tôi thui thủi một mình với ve và nắng.

Sáng tinh mơ, từ vườn sau đã vọng lại vài tiếng khọt khẹt, sau đó đổi sang rè rè, khúc dạo đầu chỉ lác đác mấy cây vỹ cầm. Rồi cả dàn đồng ca cao giọng trỗi lên. Ngoại tôi thức dậy nấu bữa sáng. Tôi vùi mình trong giấc mơ muộn mặc cho tiếng ve càng lúc càng trở nên inh ỏi.

Mười giờ trưa, chúng lại râm ran. Tôi mắc võng trong vườn, nằm im thin thít dõi mắt tìm kiếm. Cam lúc lỉu đung đưa. Mặt trời nóng rực chen qua kẽ lá, rọi vào những chú ve nhỏ bằng ngón tay út, nâu sẫm, bóng mượt, duyên dáng bám sát vào thân cây. Chúng rung rung chiếc bụng dưới đôi cánh mỏng, trong veo như cánh chuồn chuồn, nổi bật những đường gân vàng nâu bóng loáng, khoái chí phát ra giai điệu của những kẻ vô ưu, nhàn rỗi.

Tôi nhẹ nhàng ngồi dậy, rướn người đến gần, thoáng thấy đôi mắt màu cam, đẹp như hai mảnh hổ phách gắn trên chiếc đầu be bé xinh xinh và cây kim nhỏ xíu xếp dọc dưới thân, dùng để hút sương và nhựa cây. Vừa rón rén đến gần, chúng đã giật mình vội vã bay lên, gởi lại trên mặt tôi những hạt nước li ti một cách khiếm nhã.

Chỉ giận một tí xíu thôi nhưng tò mò lại nhiều lắm. Và tư tưởng chiếm hữu manh nha. Tôi muốn có những chú ve của riêng tôi, trong chiếc lọ bằng thủy tinh đựng bánh thuẫn ngày tết của ngoại, để có thể lắng nghe và ngắm nghía chúng thật gần, tìm ra chỗ phát âm bí hiểm, giải đáp cho câu hỏi tại sao thân nó nhỏ tí mà lại hoạt động như cái micro, khuếch đại giọng ca vang rền đến mức diệu kỳ!

Sau nhiều lần rình rập chụp bắt không thành công, nghe lời thằng bé ở kế bên nhà, tôi lấy mủ mít, bao vào đầu thanh tre rồi len lén chạm vào cánh chúng. Nhưng khi rón rén đến gần, lũ ranh ma đã đập cánh bay lên, đậu trên cành cao hơn, với một tư thế đầy thách thức và nhạo báng! .

Tôi nghĩ ra một cách mới. Chiếc vợt bằng bao nilon quấn trên thanh tre dài chắc sẽ dễ dàng tóm được chúng!

Bỏ ra ba buổi trưa, tôi mới vợt được một chú. May mắn cho tôi, là ve đực, biết phát ra tiếng gọi thiết tha để tán tỉnh bạn tình. Ve cái thì không thể, muôn đời lặng im. (Sao giống cái nào cũng rụt rè, e thẹn thế!). Tôi mừng đến ngất ngây, mau chóng cho vào lọ. Nó hoảng hốt, điên cuồng đập cánh, va xan xát vào bức tường thành trong suốt, è è vài tiếng tuyệt vọng, rồi thôi. Tôi xót ruột thò tay ve vuốt, an ủi chuyện trò và không quên vạch đôi cánh tìm hai hạt gạo, nơi nhận và phát âm thanh từ khoang bụng rỗng.

Suốt buổi chiều kè kè ôm chiếc lọ, đợi hoài chẳng thấy ve mở lời. Hạt gạo dưới cánh xẹp lép. Chắc do va đập trong lúc cố tìm cách thoát thân. Chán quá, tôi đậy nắp, bỏ đi chơi...

Sáng hôm sau, nghe tiếng rền rĩ ngoài vườn, chợt nhớ đến chú ve bé nhỏ của mình, tôi mở nắp, ngỡ ngàng thấy nó nằm yên, bất động.

Ngoại tôi bảo vòng đời của ve kéo dài rất lâu. Tiền thân của ve sầu là con lụy. Lụy sống dưới lớp đất tối tăm từ 2 đến 5 năm, có loài tới 17 năm (sau này tôi mới biết), bám hút nhựa trong rễ cây để sống. Đầu hè, lụy bò lên cây, thoát xác, tung cánh lên cây cao hưởng thụ mùa hè huy hoàng, hát ca, yêu đương và duy trì nòi giống. Chỉ một mùa hè thôi, ve sầu sẽ vĩnh viễn ra đi. Thế mà tôi đã tước đoạt khoảng thời gian đáng sống ngắn ngủi của nó!

Tôi ân hận, quyết định làm đám tang. Tôi để nó an nghỉ trong hộp diêm, phủ thêm lớp giấy thủ công màu vàng bên ngoài, để thế giới bên kia của nó bớt tối tăm, và trong giấc ngủ dài, nó có thể mơ thấy màu nắng vàng rực rỡ của thế giới bên này. Tôi đặt hộp diêm dưới gốc cam, nhặt hoa chanh, hoa thiên lý rụng trong vườn đắp lên mộ, thổn thức như đang đưa tang một người...

Từ đó tôi không bắt ve, bươm bướm, chim non hay bất kỳ loài động vật nào để chơi nữa cả. Tôi chỉ ngắm nghía, lắng nghe cảm nhận chúng chơi đùa quanh mình và nhận ra, giống con người, chúng không thể vui vẻ cất cao tiếng nói và khoe khoang nét đẹp độc đáo của mình khi bị cầm tù, sẽ chết dần chết mòn khi tự do bị tước đoạt!

Khi nắng hè thắp lên cành phượng vỹ trước nhà thờ họ những đốm lửa đầu tiên, tôi đang học lớp bốn. Một sáng đi học, tôi thấy lửa cháy trên sườn núi và những âm thanh đì đùng đáng sợ. Trường học đóng cửa, tôi ngơ ngác theo đoàn người trên những chuyến xe đò nối đuôi nhau vượt đèo Hải Vân để vào phố biển xứ Đà, bỏ lại sau lưng những chú ve sầu tuổi nhỏ.

Lúc bấy giờ tôi mới biết sầu là gì. Sầu rơi trên bậc thềm nhà ngoại phủ đầy hoa cau. Sầu vương trên những cây ổi, mãng cầu, gốc mít... Sầu đong đưa theo nhịp võng dưới tán lá trưa hè. Sầu thấm đẫm nhớ nhung khúc nhạc ve râm ran mời gọi ...

Còn những chú ve kia có biết sầu không? Tôi nghĩ là có. Chúng đã phải trải qua một thời gian dài sống trong tăm tối, nhưng khi thoát ra khỏi lớp vỏ, xòe cánh tung bay, chúng chỉ có vỏn vẹn 90 ngày để hưởng thụ cuộc sống tự do, yêu đương và ca hát.

Bất chợt tôi nhớ đến hai câu thơ trong bài thơ "Giục giã " của Xuân Diệu:

"Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm"

Xuân Diệu chỉ có một phút huy hoàng, mình có đến tận 90 ngày, cũng đáng, ve nhỉ!

Thu Nguyễn

 

Ý kiến bạn đọc
10 Tháng Giêng 20211:18 CH
Khách
Đã đọc, Thks tác giả
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 90046)
...Chết tuy biết vì sao mình chết, do đâu mình chết mà không làm gì được. Chết một lần dưới làn đạn Tây dương. Chết thêm một lần về tinh thần bởi lòng trung bị khủng hoảng, bị phản bội, ấy là thời đại của những con người như Hoàng Diệu, ấy là những anh hùng cứu nước như Hoàng Diệu...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75839)
Hợp Lưu 112 Xuân Tân Mão 2011 , đến với bạn đọc và văn hữu khắp nơi trong tiết trời lạnh hơn mọi năm. Một năm đã trôi qua với bao biến động trên thế giới ngày nay, và cũng là một năm có nhiều đổi thay nơi quê nhà. Dù đang ở nơi nào, tâm hồn người Việt vẫn luôn hướng về; mong mỏi đổi mới, cải thiện cho một xã hội tốt đẹp hơn. Mùa Xuân là biểu hiệu của khởi đầu và hy vọng, cũng là dịp cho chúng ta suy gẫm và nhìn lại một năm đã qua.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 103984)
...Tôi đến Trường Chu Văn An trên đường Thụy Khuê, vào phía sau sân trường tìm bãi cỏ nhìn qua Hồ Tây để nhớ đến nụ hôn đầu tiên Kiên bỡ ngỡ đặt lên môi Phương trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Bãi cỏ xanh mướt ngập đầu lưu giữ tình yêu đầu tiên của Kiên không còn nữa. Nếu giờ đây, Phương cũng đã đi nước ngoài và lấy chồng ngoại quốc, nụ hôn của Kiên trao cho Phương, chính tôi nhận và giữ hộ...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 87382)
Larsson lìa đời trước khi đứa con tinh thần, bộ tiểu thuyết thuộc loại trinh thám, Millennium Trilogy, gồm ba cuốn, mà ông đã viết vào mỗi tối như một trò giải trí cho thần kinh bớt căng thẳng, ra đời sáu tháng sau khi ông ký giao kèo với một nhà xuất bản Thụy Điển, Norstedts Förlag, nhà xuất bản thứ hai Larsson liên lạc và ký giao kèo, sau khi gửi cho một nhà xuất bản thứ nhất tới hai lần mà gói sách không hề được mở ra.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92871)
Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng Tư 1975, chúng tôi có cái hân hạnh được Công đoàn bảo hiểm Pháp ( Fédération Française des Sociétés d’Assurance ), qua thỏa ước với Bộ Tài chánh CHXHCNVN, gởi về nước cùng với một số nhà giáo Pháp giảng dạy bộ môn Bảo hiểm còn mới này trong trường Đại học Tài chính và Kế toán Hà nội - nay trường đã lột xác trở thành Học viện Tài chính.
14 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 109523)
Về đi thôi nhật ký ngày chân đất Gốc đa già bà kể lá bùa yêu Em ôm giấc thị thành nửa mùa cổ tích Hỏi gió trời sao giấu lá bùa yêu 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 84563)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83604)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75938)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80739)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.