- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

THÁNG CHẠP HOA VÀNG

13 Tháng Mười Hai 20198:55 CH(Xem: 15397)


TranhDinhCuong
Tranh Đinh Cường

Ba giờ sáng…tôi bước ra đường, những ngọn gió cuối tháng chạp như con ngựa hoang lồng lộng chạy qua các nẻo phố. Tôi lặng lẽ đi dưới hàng cây Phượng vĩ già trong rét mướt yên tĩnh đêm sâu. Có tiếng rao…Ai bánh nậm, bánh dày đây… cất lên trong khoắc khoải, một vài chiếc xe ba gác chở hàng sớm xình xịch chạy qua lầm lũi.

Tôi bước vào quán cà phê ven con đường Quốc lộ I, dưới ánh đèn nhợt nhạt vàng, hai chiếc xe honda nhếch nhác đang dựng trước cửa, trong quán một cặp trai gái dựa vào nhau, người đàn ông luống tuổi có khuôn mặt khắc khổ ngã dài trên ghế xếp. Tôi bước đến chổ ngồi quen thuộc góc quán, mấy giò lan Nghinh Xuân đang trổ hoa tỏa hương dìu dịu. Người thiếu phụ mong manh sương khói thời gian, tóc xõa che nửa khuôn mặt đôn hậu đặt ly cà phê đen xuống bàn…Không ngủ được à? Mỉm cười trong đêm tối…Nôn nao chờ đêm ba mươi…Có một tiếng thở dài…

Chúng tôi đã trải qua một cuộc hành trình đầy nỗi bất an.

Trong mắt tôi bập bùng ngọn lửa, nhà nào cũng có một nồi bánh tét và trông chừng ngọn lửa là niềm vui thích của những đứa trẻ, tiếng pháo đì đẹt nổ vang, những chú chó sủa inh oang sợ hãi chạy rông trong đêm tối. Một bàn tay dịu dàng cầm củ khoai nướng thơm phưng phức, đôi má hồng nồng nàn nụ hôn len lén phớt qua…

…Sao lúc đó tôi ngu quá…Có vẻ như giận dỗi… Ông lúc nào mà chẳng ngu…Tôi vẫn nhớ mãi những câu thơ của Hoài Khanh mà chúng tôi thường đọc… Rồi em lại ra đi như đã đến, dòng sông kia cứ vẫn chảy sa mù, ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng, nghe giữa hồn hoa cỏ mọc hoang vu… Chúng tôi ly tán và bất ngờ gặp lại nhau trong cái thị xã cũ rích này. Cái thị xã đầy nắng, gió và cát. Con đường Nhất Long chạy ngang qua trường tiểu học Cộng Đồng Hòa Do có chiếc đu quay, nối Quốc lộ I và Cồn Hồng, nơi mà mỗi chiều chúng tôi thường hay lang thang dưới hoàng hôn nhặt ngao, bắt ốc. Có ngôi trường Trung Học Cam Ranh, con đường nối Cư Xá và cảng Đá Bạc rợp hàng cây Phượng Vĩ, mỗi mùa hè tôi lại qua mấy độ. Cái thị xã lưu giữ tháng ngày thơ ấu, thời trung học hồn nhiên như cỏ dại, mối tình trong veo như sương mùa hạ, những buồn vui ngây dại của tuổi học trò.

Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ, Ôi! Những dòng sông nhỏ, Lời hẹn thề là những cơn mưa..

Người đàn ông thức giấc trầm ngâm nhìn ly cà phê, đôi trai gái hỏi xin nước rửa mặt. Ngoài kia…những chiếc xe khách đèn đuốc sáng choang phóng nhanh trên con đường thiên lý, từng đoàn xe honda lướt vào màn đêm, một số dừng lại ghé quán nghỉ ngơi. Những chiếc xe bám đầy bụi đường, hành lý lỉnh kỉnh, những khuôn mặt lo âu, mệt nhọc nhưng ánh mắt long lanh một niềm vui, những đứa trẻ hồn nhiên ngủ vùi trong vòng tay của mẹ, những đôi trai gái vẫn nô đùa hạnh phúc trong gió rét  đêm tháng chạp, trong gian khổ đường dài.

Họ là ai? Là những người con của xứ sở miền trung nghèo khó, là những con người tha phương cầu thực, từ Sài Gòn vượt mấy trăm cây số về quê ăn tết. Họ là ai? Là con của ngôi làng miền sơn cước hẻo lánh, rừng bị tàn phá, đất đai khô cằn sỏi đá, lũ lụt triền miên. Họ là ai? Là con của ngôi làng duyên hải, cát trắng chang chang, những chiếc thuyền chỏng chơ trên bãi cát, bao con người đã vùi thây dưới đáy biển sâu.

Tôi ngậm ngùi nhìn những con người đang la liệt đủ mọi tư thế nghỉ ngơi trong quán cốc. Sao dải đất miền trung này lại gian khó đến vậy? Người thiếu phụ bưng một chậu vạn thọ vàng đặt vào góc quán, nhẹ nhàng đến ngồi bên cạnh…Đẹp không?

...Vạn thọ vàng, cúc vàng, mai vàng bâng khuâng náo nức khắp mọi nhà, khắp đầu làng, cuối xóm. Mẹ tôi đem khuôn bánh in, bánh thuẫn bằng đồng, hộc cốm bằng gỗ, các đĩa sứ Giang Châu có in hình Bát Tiên Quá Hải, Tiên Nữ dâng Đào…ra lau rửa và phơi khô cẩn thận.

Tôi được nghỉ học, nghỉ những chuyến xe Lambreta đầy khói bụi đưa đón đi học. Tạm biệt ngôi trường Trung học Cam Ranh, chúng tôi trong giờ giải lao thường đứng bên lan can lầu ngắm các cô giáo đẹp như những thiên thần. Cô Ngân mang nét đằm thắm, diễm lệ của cô gái Huế, cô Thược có dáng đi thướt tha như siêu mẫu… Giờ tan học tà áo dài của các nữ sinh như những cánh bướm trắng cả góc phố chiều Cư Xá. Náo nức tạm chia tay bạn bè, náo nức đếm từng ngày…

Đó là những buổi chiều cuối năm êm đềm, trời ren rét lạnh, nắng vàng thắm. Các chị tôi, những người đẹp nức tiếng một thời, mái tóc  xanh mướt xõa dài vừa mới gội còn thoang thoảng mùi hương sả, đôi má hồng mịn màng ngồi quanh một cái nia lớn, trong nia là những đĩa sứ chứa những cục bột nhuộn màu khác nhau. Dưới những ngón tay thon dịu dàng mà điêu luyện, những chiếc bánh men có hình bông hoa bốn cánh, sáu cánh đủ màu khoe sắc. Trái ớt, trái mãng cầu đủ cả cành lá sống động, đặt trên mảnh giấy học trò được cắt vừa vặn.

Mẹ tôi búi tóc cao ngồi bên lò than hồng đặt một cái son cạn đáy chứa cát, trên lớp cát là một mảnh thiếc mỏng, trên nắp son đặt một vài cục than đỏ. Những chiếc bánh men được đặt cẩn thận vào son rồi đậy nắp lại, tay mẹ cầm chiếc quạt, quạt đều cho than lúc nào cũng đỏ. Một vài phút sau mẹ mở nắp son và cẩn thận lấy từng chiếc bánh, mùi tinh bột chín thoang thoảng thơm trong chiều tinh khiết, nhưng chiếc bánh nở lớn lên nhưng màu sắc vẫn tươi đẹp.

Trong khi mẹ tôi chăm chỉ hấp bánh, các chị vừa khoe tài làm bánh, vừa theo dõi nhắc nhở mẹ. Tôi ngồi bên cạnh vừa đọc truyện Hoa Tím, vừa liếc mắt nhìn và lòng thầm cầu mong mẻ bánh bị hư. Mẻ bánh bị cháy xém vì lửa quá già, trong khi mẹ tắc lưỡi tiếc rẻ, các chị suýt xoa phàn nàn, tôi hí hửng cất những chiếc bánh vào túi đã chuẩn bị sẵn như một vật báu…

Đêm đó dưới gốc dừa, trong cái bâng khuâng huyền bí cuối chạp, hai mái đầu non dại chụm vào nhau, vừa trầm trồ, vừa chia nhau từng mẩu bánh…

Người đàn ông hô to…Chủ quán tính tiền… Đi thôi các bạn, trời sắp sáng rồi… Đoàn xe lũ lượt mang những phận người lao nhanh vào đêm tối, sao Mai nhấp nháy đằng Đông, ngôi quán lại chìm vào yên lặng.

…Hạt bụi nào hóa kiếp trong tôi. Để một mai vươn hình hài ốm dậy. Ôi! Cát bụi mệt nhoài.Tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi…

Chúng tôi đưa mắt nhìn theo, lòng cầu mong cuộc hành trình sum vầy bình an và hạnh phúc…Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, Nêu cao tràng pháo bánh chưng xanh… là hai câu thơ mà lũ trẻ thuở đó thường đọc mỗi khi tết đến, xuân về. Lũ trẻ chúng tôi được vun đắp lòng yêu thương không khuyến khích sự hận thù, được dạy dỗ sự trung thực lánh xa điều dối trá, sống trong sạch không tham lam của người dưới mọi hình thức.

Chúng tôi đã có một cuộc hành trình dài đầy đau khổ, đã mất mát quá nhiều vật chất lẫn tinh thần. Mất mảnh đất mà cha ông cả một đời đổ máu, mồ hôi, nước mắt gầy dựng. Mất những người ruột thịt thân yêu, mất cả một tuổi thơ hiền hòa mật ngọt. Mất bạn bè, mất đi cả một niềm tin…

Chúng tôi mang nỗi cô độc của số nguyên tố không chia sẻ cho bất cứ ai, lấy nhiều lần nguyên hàm nhưng vẫn không tìm được khuôn mặt đã đánh mất của mình, như những con đường chỉ là tiệm cận.

Tháng chạp về miên man ký ức, miên man những cánh hoa vàng.

Mẹ tôi đã về bên kia, các chị đã già cỗi, có người đã ly hương…

Có phải trong đôi mắt em có đôi giọt nước mắt?…

  
TRẦN QUANG PHONG                                                      

Những ngày mưa lạnh 2019

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 94594)
Trên trang văn hóa báo Le Monde hôm nay có bài giới thiệu về một cuộc triển lãm ảnh của phóng viên ảnh chiến trường người Pháp Henri Huet về cuộc chiến tranh Việt Nam với Mỹ qua bài viết: "Chiến tranh Việt Nam : Những hình ảnh, bạn hữu và cái chết".
24 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 87540)
C húng tôi hãy còn rất trẻ. Tuổi trẻ không trông thấy trên khuôn mặt, trong đôi mắt, nhưng ở những giấc mơ không bao giờ tắt. Tết Giáp Tuất. Tôi về sống ngôi nhà của Quý, phía nam phần lục địa. Trái đất xoay như thỏi đá cứng, những cạnh gai góc cắt vào chốn vô hình. Mỗi trưa, tôi với Quý và Chiến - cũng một người bạn ở nhờ - bầy những tiệc rượu đón bắt những vô hình mà cả ba đều linh cảm rất rõ, theo sóng của cây rừng tràn đến tận thềm. Cả một triền núi lươn lướt tắp đến bàn rượu. Cơ ngơi của Quý to lớn sừng sững.
24 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 86757)
H ồ Đình Nghiêm, sinh ở Huế. Làm thuyền nhân trôi giạt qua Hồng-kông năm 1979. Định cư ở Montréal từ 1980. Viết lai rai cho hầu hết các tạp chí xuất bản tại hải ngoại, cộng tác với Hợp Lưu ngày từ số ra mắt. Đã in bốn tập truyện ngắn...Chưa hề trở lại cố quận đìu hiu.
24 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 118244)
Đừng đánh thức giấc mơ tôi trong lúc ngửa mặt lên trời hứng những giọt mưa đêm tháng chạp với hình ảnh duy nhất là đôi mắt em.
24 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 86737)
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899- 2 tháng 7, 1961) là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Cách viết văn riêng biệt - biểu thị qua đặc điểm lối mô tả khiệm lời và khiêm nhường - cũng như những cuộc phiêu lưu và hình tượng công chúng của ông đã tạo nên nhiều ảnh hưởng cho nền văn chương hư cấu của thế kỷ thứ 20.
23 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 98475)
Chương trình phát thanh tiếng Việt hàng ngày của đài BBC, Anh Quốc, quen thuộc với người Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua, sẽ chính thức ngưng hoạt động sau buổi phát thanh cuối cùng vào Thứ Bảy 26 tháng 3 từ 14 giờ 30 đến 14 giờ 45 giờ quốc tế hay từ 9 giờ 30 đến 9 giờ 45 phút giờ Việt Nam.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 77859)
Hoàng Chính chuyển ngữ từ Peeling trong tập truyện "The Fat Man in History" của Peter Carey. Peter Carey, tiểu thuyết gia người Úc, sinh ngày 7 tháng 5, 1943, hai lần đoạt giải Man Booker với các cuốn "Oscar and Lucinda" (1988) và "True History of the Kelly Gang" (2001). Hiện Peter Carey dạy đại học tại New York.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 86737)
Những cái chết sau quá khứ về sau vẫn tiếp tục tiếp diễn mãi cho đến tận bây giờ. Những cái chết trên biển, bên kia biển, và bên này đất liền.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 112555)
Tháng Mười chơi trò xếp đặt Những con rồng được tạc bằng xương người Những con rắn cong khô trên bếp than cời Dưới nền trời xám và khô Phố phường mạ bằng vàng mã Người người ướp lạnh.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 82450)
T rước năm 1975, mỗi dịp Tết âm lịch, văn gia và dân chúng miền nam thường làm lễ kỷ niệm chiến thắng Tết Kỷ Dậu (31/1/1789) của Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792). Đây là một trong những võ công vệ quốc lịch sử của dân tộc Việt chống lại âm mưu thôn tính của bắc phương từ ngày giành được độc lập năm 939–sau khi Ngô Quyền (898-944) phá quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng (theo Nguyễn Trãi, còn gọi là sông Vân Cừ), khai sinh ra một vương quốc mới, tức Đại Việt (từ năm 1054) hay Việt Nam (từ năm 1804). (1)