- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

LÀNG ĂN MÀY VÀ MẪU BÁNH MÌ CŨ

19 Tháng Mười Hai 201711:54 CH(Xem: 27160)



UYEN LE -Truyen thang 12
Uyên Lê - SG 2017

 

Bà bác dâu đón tôi ở phi trường Trudeau, không phải bà cô ruột. Tôi đã mong đợi bà cô ruột. 

 

Bố tôi có hai bà cô, một là cô ruột và bà bác dâu. Từ lúc tôi chào đời đã có hai bà ở đó, Tôi vẫn quen gọi bằng bà dù hai bà còn khá trẻ. Ông cố tôi nhiều vợ, lắm thiếp, lại đẻ dày, đến nỗi con và cháu nội ra đời cách nhau không xa lắm.

 

Quê bố tôi ở Hương Sơn Hà tĩnh, mảnh đất cúi Bắc, đầu Trung, nửa núi, nửa đồng bằng, người nói giọng trọ trẹ, nửa thị và quá nửa quê, mà quê đá, quê núi, quê cằn, quê cỗi, quê không có đất để cày, có trâu để cưỡi. Bà bác dâu vẫn hay kể cho tôi nghe như vậy.

 

Không gian phi trường Trudeau cũ mèm, trên nềm thảm cũ màu tối, đèn đêm mờ tối,  chuyến bay 12 giờ đêm làm những con người lơ láo chung quanh cũng xuống màu, nhàu nát, cũ kỹ,  bà đứng đó lặng im nhìn tôi, không ôm vồ vập,  áp môi hôn một bên má như kiểu Tây gặp nhau, đôi mắt đen sắc như hai đường chì kẻ mảnh, nhìn trực diện vào mặt người đối diện, miệng mơ hồ như cười như không, làn da trắng xanh mỏng như giấy lụa bóng.

 

Cả nhà, cả họ hàng ai cũng sợ bà vì nhan sắc lạnh lẽo này.

 

Trừ tôi và bố tôi. Bố tôi bảo cả họ nhà bố tôi nợ bà nhiều thứ, và bố tôi ra sức mà trả để không dây dưa qua kiếp sau. Tôi chỉ biết tôi vừa yêu bà, vừa nể, vừa sợ.

 

Bà tự tay lái xe đưa tôi về nhà, vẫn lặng im không nói gì nhiều. Ngôi nhà bằng gỗ, lọt thỏm giữa khu rừng cây lá kim dày đặc, trời mùa hè nên 10 giờ vẫn còn sáng rực, chỉ có hơi ẩm bắt đầu len qua nhánh lá thông, lọt vào khung cửa lưới. 

 

Bà cô ruột từ trong nhà ào ra, tóc bạc trắng, vừa khóc vừa cười, tíu ta tíu tít. Và ngay lập tức tôi được ôm ấp, hôn hít chầm chập vào cổ, vào má, kèm theo bao nhiêu là rên rỉ, sờ sẫm suýt soa. Và mùi hương người già, trong giá lạnh, phả ra héo hắt mốc thếch, bao vây lấy tôi.

 

Đây là bà cô ruột của tôi rồi, đúng tính chất của họ Lê nhà tôi rồi, vồ vập, hối hả thắm thiết đấy mà lợt lạt, hời hợt, bạc bẽo ngay đấy!

 

Giữa chừng cái ôm ra rít, thắm thiết, bà cô ruột chợt vụng trộm  thầm thì vào tai tôi,

- Con có để dành bánh mì cho bà không?

 

Vì bố tôi đã dặn dò rất kỹ lưỡng, nên tôi lật đật lục tung túi xách, đưa ngay cho bà một túm bánh mì phần ăn trên máy bay, và hớn hở:- Có ngay đây bà ạ!

 

Mắt bà cô ruột sáng lóe lên rồi đờ dại hẵn đi, như chạm vào giọng nói đều đều lành lạnh của bà bác dâu  xuyên qua căn phòng rộng:

 

- Bà lại xin bánh mì nữa à?

 

- Tôi thấy thèm bánh mì- bà cô ruột cúi gằm đầu, tiếng nói lí nhí như thoát ra từ đôi vai rụt.

 

- Thế những thứ này là gì?

 

Bà bác dâu giựt mạnh tất cả các cánh tủ bếp trên đầu, một trận mưa bánh mì rào rào rơi xuống, bánh mì đen, bánh mì trắng, bánh mì sandwich, bánh crossant còn nửa cái, bánh mì vòng còn nguyên vẹn, bánh mì bagguette chỉ còn  lại cùi nhọn hay mẫu vụn, và vô số bánh mì tròn bằng lòng bàn tay từ phần ăn của các hảng Airlines tuôn xuống, không ngừng.

 

Mặt bà cô ruột của tôi chuyển sang nhăn nhúm rồi trắng bệch, bà gào lên bằng tất cả hơi sức của mình, gân cổ căng ra đỏ tía:

- Bà làm nhục tôi thế này vì bà thù tôi, bà đã  hận tôi suốt đời bà.

- Vì lẽ gì tôi phải hận bà? Tôi đem bà về đây nuôi khi con của bà bỏ bà vào nhà dưỡng lảo- bà bác dâu vẫn không thay đổi giọng nói.

- Vì cái làng ăn mày của nhà bà. Vì chúng tôi cứu bà từ cái làng ăn mày đấy! 

 

Bà bác dâu lặng lẻ đi lên cầu thang, lưng vẫn thẳng, đầu ngẩng cao như không hề nghe thấy gì. Đến bậc đá cẩm thạch  đen tuyền cuối cùng, bà đứng sững người, không quay đầu lại, ném vào không gian lặng ngắt từng từ một, không âm sắc:

 

- Cái làng ăn mày đó, tôi quên hẳn rồi. Nó chỉ còn sống trong đầu bà thôi. Trong nỗi sợ của bà, trong nỗi ám ảnh sợ đói của bà. 

 

Bà cô ruột của tôi khóc, khóc rấm rứt trong khi cùng tôi thu dọn đống chiến trường ngỗn ngang bánh mì cũ khô mốc, nhét đầy lại trong ngăn tủ bếp.

 

Đầu óc tôi quay cuồng, ngay lúc ấy, tôi chỉ nghĩ về làng ăn mày. Làm sao bà ấy lại có thể quên được làng ăn mày? Và trên cái nền của sắc màu vàng vọt kỳ ảo nửa đêm trắng, trong không gian sặc mùi mốc xanh lên meo nấm của bánh mì, tôi nhớ về quê cha tôi, tôi nhớ về bài học lịch sử đầu tiên qua những nốt đậu mùa chi chít trên mặt bà bác dâu.

 

Tôi gọi đó là "bài học lịch sử đậu mùa"

 

Từ bé tôi đã mê mẫn môn lịch sử. Tôi khám phá ra niềm phấn khích lạ kỳ, nỗi đam mê rợn chân tóc, và tò mò lầm râm dưới làn da khi lật trang sách sử, dù đôi khi chỉ là ngày tháng lạnh lẽo, cộc lốc, những tên người, tên đất, tên miền, tên sự kiện lầm lủi nối tiếp nhau như ảnh mờ chạy chậm trên màn hình đen trắng, như dợm một bước chân vào sau tấm gương đồng mở lối vào đường hầm quá khứ…

 

Tình yêu này, trong sâu xa, bắt nguồn từ bà bác dâu.

 

Từ những nốt đậu mùa trên khuôn mặt trắng nhợt nhạt của bà bác dâu.  Khuôn mặt đầu tiên cúi nhìn tôi khi tôi vừa ngo ngoe ra đời từ bụng mẹ.

Người ta nói, ký ức về khuôn mặt đầu tiên người ta nhìn thấy khi chào đời sẽ nằm mãi trong trí nhớ và tiềm thức của người ta suốt một đời. Tôi tin vào điều đó.

 

Vì sau hết những ký ức ngồn  ngộn chất đầy trong bộ não tò mò phấn khích của tôi, thu nhận, lấp đầy, chảy mãi miết rồi đào thải, để lại tiếp tục tiếp nhận những hình ảnh mới, ký ức mới. Thì phần nằm lại kiên nhẫn nhất và sâu nhất vẫn là khuôn mặt của bà bác dâu.

 

Ký ức đó pha trộn ký hiệu đầy cảm xúc của da ngón tay lần dò trên nốt đậu mùa lồi lõm, và mùi ngọn bấc đèn dầu cháy gần tàn hoi hoi, tiếng reo lửa lục bục, đêm mùa hè ẩm ướt sau sóng lưng:

-  Những nốt sẹo này làm sao bà có?- tôi hỏi , rợn người vì sự thôi thúc của lòng gan dạ và trí tò mò.

-   Từ một năm đói, rất đói, cả làng đói, cả xã đói, không gì dày vò hủy hoại người ta bằng cái đói, cái đói làm người bò bằng đầu gối, vùng dậy trong đêm, đi như ma qua những cánh đồng chết vàng vì hoàng trùng, qua những ngõ xóm tối hoang và không bóng gia súc, vì tất cả đã bị đem ra làm thịt, kể cả lũ chuột.

-  Bà không chết đói à? – tôi rùng mình khi mồ hôi chạy dọc qua sóng lưng lạnh ngắt, là một đợt gió nửa nồm hè.

- Không, người ta chỉ có thể chết vì một thứ trong đời, người chết nhiều đến nỗi thần đói không màng giành giựt, ông ấy nhường bà vào tay thần đậu mùa, vậy mà bà sống đấy. Nhưng cả nhà bà đã chết hết, chết dấm dúi trong bụi, đống rơm, cây chuối, dưới ao, trên mặt nước, khi trên đường bò ra tìm côn trùng hay bất cứ thứ gì có thể bỏ vào mồm được. Bà sống được nhờ mẹ của bà, cụ chết đã ba ngày, chết đói, vàng mắt, hõm má, nhưng bầu sữa thì kỳ diệu, vẫn còn nóng cho bà lay lắt riết róng mãi cho đến lúc người ta kéo xác mẹ của bà hắt vào xe bò.  Nếu đôi mắt của bà không lóe lên trong đêm, người ta đã hắt bà xuống ao cùng cả nhà.

 

Từ trong góc tối ngọn đèn dầu không hắt tới, bà cô ruột của tôi chen vào , cười nhạt:

 

-  Bà không kể nốt chuyện làng ăn mày của bà à? Người ta cứu bà ấy cốt nuôi lớn để đi ăn mày và sai vặt. Làng ăn mày đông lắm , mà lại lười, chẳng ai muốn động tay động chân, chỉ có bà ấy là choắt người mà khỏe như hơn trâu vật. Cái số người đã lọt lưới tử thần một lần thì  sống dai lắm, dai hơn đĩa đã tróc lên bờ, dính phải vôi!

 

Tôi ngồi im trong sự lặng lẽ bất thường của bà bác dâu, bà cô ruột vẫn hơn hớn kể chuyện liến láu, từng từ lộn xộn như va chạm xo đẩy nhau tuôn ra:

- Bà cố mình lấy bà ấy về cho bác trưởng, bác ấy chẳng thiết vợ con, chỉ muốn người siêng làm về hầu hạ cả nhà. Ngày đón bà ấy về mới là kinh. Đám rước cũng đàng hoàng bằng đò, ba chiếc, người làng ăn mày bu theo ăn cỗ thừa đông cơ man là đông. Níu trĩu be xuồng không nhích được tất nào. Thế là người đi rước dâu phải lấy mái chèo quất thật lực vào tay dân đi ăn chực, bao nhiêu là ngón tay rụng lã chã xuống nước. Có mấy lóng tay còn dính cả vào be xuồng cứ run giật như thằn lằn phải mất đuôi. Vậy mà cũng không cản được mấy. Dân ăn mày ấy, chúng nó dai lì như đỉa trâu thấy mùi máu càng say! Tôi kể thế có đúng hay không?

 

Bác dâu chỉ bấu tay vào cạnh bàn, những đốt tay trắng bệch phình ra to khác thường, chờn vờn trên tường.

 

Không ai dám nhắc lại chuyện về làng ăn mày với bà bác dâu, trừ bà cô ruột. Bố tôi nói, có những người vì được chăm nom, chiều chuộng quá kỹ lưỡng đến nỗi chỉ có thể già đi mà không biết lớn lên. Bà cô ruột của tôi là một. Bà là con gái một , dù nhà kiết vẫn ra dáng tiểu thư con nhà chức sắc, quanh năm ốm đau quặt quẹo. Lớn lên lấy chồng , đẻ con một tay bà bác dâu trông nom bế ẵm.

Mà hầu như con cháu trong nhà, chỉ một tay bà bác dâu chăm sóc, ai chửa đẻ cũng gọi bà bác dâu hầu hạ thuốc thang, quạt than, hơ lửa. Số bà là thế rồi, người ta lấy dâu trưởng về không để ngồi đầu mâm, mà để chui vào xó bếp, không phải để ăn miếng ngon, miếng nóng mà chỉ được phần hẩm, và thừa.

 

Ngay cả với chồng, đêm đầu tiên về động phòng, ông bác tôi chỉ đạp bà một phát lăn xuống giường, ông đã quen ngủ một mình, và bà lúc ấy vừa hôi, vừa gầy nhom ,lại vừa rỗ chằng chịt. Mãi đến năm lên mười bảy, sau bốn năm thừa hưởng cơm thừa canh cặn nhà chồng, da thịt đỏ thắm lành lặn, bà mới được nằm cạnh bên chồng, mà chỉ thấy sấp lưng to tê đè nghiến, cảm giác tình yêu vừa thô vừa vụng về, mà lại nhớ hôi hổi hoài.

 

Ai dè cũng nhờ cái đạp xuống chân giường và cái lưng đè nghiến thô bè ấy, bà đã nhận ra xác của ông bác trai.

 

Ông thuộc diện lính kiểng, lính canh kho bạc mà chỉ một lần mang quân lương ra trận đã thành ngay tử sĩ , pháo giật đi nguyên đoàn phơi mình mấy ngày trên mặt ruộng.

 

Thời ấy chiến trận ác liệt, chẳng ai dám mang xác ông về, mà xác tanh bành té bẹ lẫn lộn, cũng không ai nhận ra ai nỗi mà lọc ra đem về.

 

Bà bác dâu một mình trong chiều, kéo xe bò cọc cạch đi tìm xác chồng. Bà cố tôi khóc hời hời : vì con vợ mặt mỏng, lại bạc như vôi nên hại hết phúc nhà chồng. 

 

Bà bác dâu lầm lũi kèo xe bò đi, cọc cạch , đường làng cọc cạch, năm ấy trăng quầng rất lớn , ráng chiều đỏ như máu loang, quạ đen bay đầy đồng, béo đến không cất cánh lên nổi.

 

Bà nhận ra xác chồng chỉ từ cái bàn chân dài khác thường, bàn chân một đêm đã đạp bà văng xuống đất , và cái lưng to bè, cái lưng đè sấp lên bà suốt những đêm yêu, cái lưng mà bà đã tưới biết bao nhiêu âu yếm nhớ thương mỗi đêm, bà hiếm khi thấy được mặt chồng sau những lần yêu vội vã.

 

Bà chỉ gào lên một tiếng nhỏ: Mình ơi ! rồi nín bặt, tiếng kêu duy nhất suốt mười năm làm vợ ấy không phải nghẹn vì đau đớn. Mà bà nghẹn tắt nữa chừng vì thấy lạ lùng. Cái dáng nằm của chồng bà ấy, sao mà co quắp, khốn khổ lạ lùng. Như đang ôm ấp, ủ ẩn cái gì đến quặn thắt bên trong. Bà lật xác bác trưởng lên, một bọc tiền lớn rơi ra, còn tươi màu máu và mùi máu.

 

Lúc này bà mới hộc lên nức nở: - Mình ơi!

 

Cả đời bà chưa rờ được vào đồng tiền, chồng bà chưa cho bà được một cái nhìn, một nụ cười âu yếm. Chỉ sau khi chết đi, ông mới vặn vẹo gìn giữ được cho bà một gia tài.

 

Cả một gia tài lớn so với thời ấy!

 

Bà đánh xe bò lầm lũi cả đêm đi về , bọc tiền vẫn úp dưới bụng chồng.

Sau đêm ấy bà trở nên người đàn bà hoàn toàn khác.

...

 

UYÊN LÊ

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
05 Tháng Mười Một 201112:00 SA(Xem: 117078)
N hà thờ vắng vẻ. Những hàng ghế trống im lìm. Chúng tôi đứng cạnh nhau sau hàng ghế cuối, tôi bảo nàng nhìn lên tượng Chúa và im lặng. Rất trang trọng, mấy phút sau tôi hỏi nàng, Kim có biết tôi vừa nói gì với Chúa không. Nàng gật đầu, mắt long lanh ướt. Tôi thầm cám ơn Chúa và nắm tay Kim rời nhà thờ. Tôi đã cầu hôn nàng như thế đó.
25 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 91720)
H ợp Lưu 115 đến với quí độc giả và văn hữu vào những ngày cuối tháng Mười khi “Cuộc cách mạnh Mùa Xuân Ả Rập” ở Lybia đã thành công bằng sự ra đi vĩnh viễn của Gaddafi, một tin ngắn của Reuters cho biết: “Ông Gaddafi và con trai đã bị thương, bị bắt sống nhưng sau đó đã chết. Theo truyền thống Hồi giáo, người chết phải chôn cất trong vòng một ngày, nên việc trưng bày xác chết cho người xem trong nhiều ngày đã làm cho nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng […]mọi người và các nhà lãnh đạo Libya đều đến xem xác Gaddafi để rút bài học và đừng bao giờ đàn áp người dân.” Đoạn tin trên khiến cho chúng ta liên tưởng đến nhiều việc...
23 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89364)
C uộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 , trên bối cảnh liên hệ ngày một xấu đi giữa Bộ Ngoại Giao Mỹ và chính phủ Ngô Đình Diệm trong hai năm 1962-1963. Mặc dù chỉ nhấn mạnh vào cuộc tự thiêu bi tráng của Thượng tọa Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963 [...] “Vài Ý Nghĩ Về Thượng Tọa Thích Quảng Đức” công bố lần đầu tiên một số tài liệu văn khố Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa và Phủ Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa, giúp vùi chôn một lần và mãi mãi loại sử văn suy tôn, nhớ ơn và đào mộ. Tạp Chí Hợp Lưu
23 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 106027)
D ưới tiểu tựa Vài Vấn Nạn Lịch Sử Thế Kỷ XX, tác giả đưa ra hai vấn nạn từng bị xuyên tạc trầm trọng bởi các hệ thống tuyên truyền của nhiều hơn vài ba thế lực chính trị. Vấn nạn thứ nhất là vai trò nhà ngoại giao của ông Hồ Chí Minh (1892-1969), Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ 1945 tới 1969, trong giai đoạn 1945-1946, một giai đoạn cực kỳ quan trọng cho sự sống còn của nhà nước Việt Nam hiện nay [...] Vấn nạn thứ hai là cuộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, trên bối cảnh liên hệ ngày một xấu đi giữa Bộ Ngoại Giao Mỹ và chính phủ Ngô Đình Diệm trong hai năm 1962-1963...
16 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89312)
H iệp ước sơ bộ 6/3/1946 [Convention priliminaire de 6 mars 1946] là văn kiện ngoại giao đầu tiên ký giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] với đại diện Cộng Hòa Pháp tại Đông Dương, qua trung gian chính phủ Trùng Khánh. Mặc dù chỉ có tính cách tạm thời, văn kiện này công nhận sự hiện hữu của VNDCCH. Nó chính thức cải biến, nói theo các viên chức Bri-tên và Pháp, một thực thể chính trị “sinh ra trong hỗn loạn” thành một chính phủ lâm thời, của một “nước tự do” [un état libre] “có quốc hội, quân đội, tài chính và ngoại giao riêng,” nằm trong Liên Bang Đông Dương và Khối Liên Hiệp Pháp.( 1)
15 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 101831)
N hạc sĩ Phạm Duy có cái nhìn xuyên suốt, không rào cản so với nhạc sĩ cùng thời. Người lắng nghe giao thoa những tiến triển nền âm nhạc Việt so với thế giới từ những năm 1930 cho đến nay.Từ cái bắt gặp đầu tiên trên bộ đồ bà ba xanh, đôi mắt sáng trên vành tai thính âm tài hoa ấy. Nhạc sĩ Phạm Duy chợt cười, nụ cười nhéo mắt luôn điểm lại con người ấy từng nốt nhạc vượt không gian thời gian. Hồn nhiên Phạm Duy cười nói: : “Tôi có hai con mắt, một con trái mắt tỉnh tảo thực tế với dòng đời. Và mắt phải luôn làm việc sáng tạo.” Cuộc phỏng vấn sau đây ghi lại một vài nét về cuộc đời nhạc sĩ Phạm Duy với thế hệ trẻ tại Việt Nam đang muốn cùng ông bày tỏ tâm sự.
14 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 96885)
T rong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết có bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89493)
T rần Hoài Thư đến với văn chương rất sớm, sớm hơn truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1965. Và nếu phân chia các giai đoạn văn học miền Nam theo cách của Võ Phiến (xem Văn Học Miền Nam, tập tổng quan, nxb Văn Nghệ, Hoa Kỳ 2000) thì Trần Hoài Thư được xếp vào ( Những Cây Bút Trẻ , theo cách gọi thời đó) giai đoạn 1964-1975 giai đoạn mà chiến cuộc bắt đầu bùng nổ dữ dội.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 119065)
Đ ó là Tetbury, một thành phố thơ mộng nằm về phía nam Luân Đôn khoảng 200 cây số (?).Tôi chỉ nhớ phải mất ba giờ lái xe để đến nơi. Thành phố nhỏ, những con đường dốc, hẹp. Nhà với mái xuôi nhọn hoắt, nằm liền nhau, phần lớn mở shop bày bán đồ cổ, quán ăn uống, tiệm cà phê.
08 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 105372)
... k ể từ hôm nay(Oct 8-2011) , người ta không còn mua vi cá ở California được nữa. Thống Đốc tiểu bang California đã ký ban hành luật cấm thủ đắc và bán vi cá nhập cảng vào California. Trong bản tuyên bố sau khi ký ban hành luật, Thống Đốc Jerry Brown nói rằng việc cắt những vi của những con cá mập còn sống và ném thân chúng xuống biển không những là hành động tàn bạo mà còn làm ô nhiễm nước biển.