- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

THƠ TRẦN QUỐC TOÀN

11 Tháng Tư 20162:58 SA(Xem: 31123)

ChauDungToan
Trần Quốc Toàn- Sài Gòn 2016


LTS: Lần đầu cộng tác cùng Hợp Lưu. Trần Quốc
Toàn sinh năm 1992, hiện sống và làm việc ở Sài Gòn. Là một trong những tác giả trẻ nhất viết cho Hợp Lưu. Trần Quốc Toàn có một số  Thơ và Truyện ngắn được phổ biến trên vài tạp chí trong nước. Chúng tôi hân hạnh gởi đến quí bạn đọc và văn hữu những sáng tác của Trần Quốc Toàn.

Tạp Chí Hợp Lưu

 


BÃI THA MA TRÊN ĐỒI TRĂNG

 

Ta đi tìm bãi tha ma trên đồi trăng

Băng qua tiếng gió rùng rờn cùng tiếng nút lưỡi rắn lục xanh

Đóm lửa phù vân đốt hương trên mộ lạnh

Những chồi cây bóc vỏ từ lòng đất chui lên

Cùng những con ma đi ra từ bào thai nhân quả

Chúng cười và uống rượu giữa mùa đông.

 

Cái bàu đá cha ông để chút hương nấu chén tạc chén thù

Giờ mất hút bởi những hồn ma lịch sự.

 

Ta đi tìm bãi tha ma trên đồi trăng

Mang gương mặt đêm ủ dột

Bầu trời đã bị chột một mắt

Đêm mọc trăng

Mặt ai mọc chút tàn hương thiếu nữ

Ngự trên đồi trăng trai trẻ

 

Nơi nghĩa địa vĩnh hằng một cơn ảo tưởng

Làn khói dâng bát cơm nhang thờ phượng

Cúng ai ta lạy những mặt buồn vui nhân thế

Ru một hơi thở phả vào trong giấc ngủ bình sinh.

 

GIẤC MƠ CÁNH ĐỒNG

Khi mặt trời bong từng giọt nắng đỏ au

Mẹ tảo giọt mồ hôi trăn trở mùa trăng trên thân cây lúa lút sương sau ngọn núi

Nơi mà ba đã đem con trâu ra đồng dạy từng đường cày bằng vết roi của buổi chiều rám mỡ gà

Bụi lát đau tiếng đá chân con châu chấu gọi đàn bay về phía mặt trời quặng đỏ

Có con chim sải cánh lưu lạc chúp chíp gọi gió cuốn đi đến tận cuối cánh đồng hoang

Trang sách mục sợi chỉ nằm ngửi hương trong vòm họng của con tắc kè nhái giọng tuổi thơ ê a con chữ

Thương quê tuổi còn niên thiếu

 

Lâu rồi chưa thả con diều bay cùng cổ tích trong giọng kể của ngoại

Dòng sông trôi bạc con trăng

Núi đồi còn hương bông hoa ngũ sắc

Mái chùa vẫn cong như một câu hỏi phù hư

Con cá rô vẫn trốn biệt sau nhiều năm nước mặn ngập bờ

Hoa cỏ may vẫn găm đầy chiếc quần trẻ nhỏ chăn trâu

Mẹ vẫn ngồi chong bếp lửa để buổi chiều mộng mị mắt con thơ.

 

Khói ơi bay tận ngàn sau

Cho câu kinh còn dạy loài người thoát tục

Mà đau rát bàn chân nhà sư đi hành khất chén cơm còn lẫn lộn đạo với tục

Mà đau rát bàn tay mục sư làm dấu thánh cho nhà thờ vọng chuông

Mỗi một mùa thu lá rụng đầy trên lớp đất còi cọc

Mưa ngủ rừng sâu âm vọng tiếng côn trùng

Cây cổ thụ chảy nhựa tràn trụa nức nở mơ những con chim hót

Người thợ săn rượt đuổi bóng đêm khi giọt máu con vọc rải ướt đọt lá bóng nốt xương rời...

 

 

Khi mặt trời bong từng giọt nắng đỏ au

Ba thu ngọn roi dắt con trâu về chuồng nằm nhai ngọn gió đêm hè

Mẹ ru em chòng chành câu ca dao trong đêm gió thổi buốt nhánh tre già

Gốc bồ đề tỏa nhánh đắp mộ mặt trăng

Cánh cò trắng gội mình trong mưa

Lúa ngoài đồng trổ vàng nằm ca tụng trong máy tuốt lúa

Hàng cau úa ngắm buổi chiều rơi từng tàu lá và hoa

 

 

 

Mỗi một mùa thu lá rụng đầy trên lớp đất còi cọc

Tôi thấy cuộc đời cứ nhũng dần và tàn lụi trên miệng hố thẳm

Giấc ngủ của loài người ngày càng thiếu thốn những miền vui

Gió hoang cũng bào mòn những ngọn đồi nắng quái

Để những khi đôi mắt ẩn niềm đau sẽ trở về thực tại

Hai hố thẳm lồng lộn gió trời.


HOA SẦU ĐÂU

Hoa sầu đâu nở dưới trăng

Lúc bầy thằng lằn cắn bóng đêm trong khu vườn mười tám

Tóc bé thả hoang như một câu chuyện cổ tích buồn

Có đôi lần trong mơ tôi gọi nhầm tên kí ức bằng tên con bò sữa

Ở lưu vực gió tôi thổi sợi tóc bay lệch góc trời để con cá đớp nhầm giọt nắng cuối ngày...

 

 

Tuổi mười tám có lúc thèm nhìn cơn mưa

Có lúc đôi chân lang thang trên đám cỏ sương lưng chừng vụn vỡ

Mà minh chứng cho những cái mình tưởng tượng là có thực.

 

 

Hoa sầu đâu bung nở trong tiếng thằng lằng đẻ trứng dưới trăng

Có lúc ôm mùa thu rải lá trôi lạc nhánh sông khuya

Tuổi mười tám bỏ cuống rốn cho chuồn chuồn mang đi tránh nắng

Mà thương tuổi nhỏ ra đồng cùng lũ bạn tắm mưa.

 

 

Lâu rồi tôi không được uống bình rượu bầu đá

Xứ người lắm lúc cũng thương phận mình đơn độc

Cũng buồn ngó trăng để biết nó tròn hay đã khuyết

Đôi khi tiếng cười cũng làm mình trở lại buổi nguyên sơ.

 

 

Tháng ba phủ mình trong cái nắng gầy phố thị

Bé viết tên hoa sầu đâu

Mà thương khuya tràn qua câu chuyện cánh đồng

Hạt thóc lép nén mình bung tàn trong lò đất

Tiếng chàng làng báo hiệu mùa khô khan

Chiếc xe đạp nghiêng bóng cô học trò sau cổng làng.

 

 

Hoa sầu đâu dẫu tàn trên ngôi miếu cũ

Khi người con gái đẩy thuyền về bến sông mê

Phía sau bỏ lại nhánh sông trôi lạc những cánh hoa trắng

Bé có thương cái buồn của tỉnh lẻ vu vơ

Đằng sau bao câu chuyện đời nửa hư nửa thực

Rồi cũng lặng lẽ soi mình

Trên cánh đồng bạt ngàn cỏ lá.


TRẦN QUỐC TOÀN

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 116894)
Nắng chiếu óng ánh trên mái tóc ngắn của cậu con trai, chiếc sơ mi mầu xanh dương hơi nhàu nơi hai bàn tay cô gái níu. Cô níu chặt quá, làm cái cổ sơ mi như muốn lật ngửa ra soi rõ một cái gáy thanh xuân mạnh mẽ. Cô gái nằm phía dưới tuy không nhìn rõ hết khuôn mặt, nhưng vầng trán nhô ra rất thanh tân.
02 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 74322)
02 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 85119)
...Trong hoàn cảnh hiện nay, người làm văn học, trong hay ngoài nước, đặc biệt là giới trẻ, đang có cơ hội và khả năng tạo một sinh khí cho xã hội VN, giúp giảm thiểu những phá sản tinh thần đang xẩy ra. Muốn vậy, rất cần có sự đam mê, học hỏi, và lòng can đảm nói thật, viết thật. Không có nền văn học có giá trị nào được xây dựng trên sự giả dối và tránh né.
02 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 96279)
LTS: Nguyễn Hạnh Nguyên sinh năm 1985, tốt nghiệp thạc sĩ khoa học ngành Ngữ Văn. Hiện sống và làm việc tại Hạ Long, Quảng Ninh. Năm mới, bài viết mới lần đầu đăng ở trang mạng Hợp Lưu như một món quà xuân gởi đến quí văn hữu và bạn đọc đầu năm Tân Mão 2011. TCHL
30 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83930)
Bài viết này duyệt lại huyền thoại trụ đồng Mã Viện xuất hiện từ khoảng thế kỷ thứ IV-V, nhưng không hề có dấu vết trên thực địa hay trong quốc sử Hán. Những dã sử về số lượng và vị trí trụ đồng chẳng những thiếu cơ sở, mà còn di động, từ châu Khâm tới Hà Tiên-An Giang—không ngừng nam tiến, giống như tấm bản đồ biển Đông Bắc Kinh mới công bố năm 2009, ấn chứng của “thực dân xã hội chủ nghĩa” [Han social-colonialism ], vò đựng mới cho tinh thần Đại Hán phong kiến.
30 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 73652)
Vichto Olegovich Pelevin sinh ngày 22.11.1967 tại Moskva, trong một gia đình quân nhân. Năm 1989 Pelevin thi vào trường đại học năng lượng, từ 1989-1990 học hàm thụ trường đại học viết văn Maxime Gorki. Pelevin bắt đầu sáng tác vào giữa những năm 80, mười năm sau, chưa đầy ba mươi tuổi, có trong tay hơn chục tiểu thuyết, truyện vừa và năm-sáu tập truyện ngắn, anh đã trở thành "hiện tượng bí hiểm nhất và nổi tiếng nhất trong thế hệ các nhà văn hậu Xô Viết".
30 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 90497)
Nhân viên trực phòng xác bật đèn. Ánh sáng xanh nhợt gây thêm sự lạnh lẽo. Hai bàn tay Sinh nắm chặt lại trong túi áo khoác. Gã nhân viên liếc nhìn Sinh, rất nhanh. Sinh tưởng như hai người kia cũng nghe được tiếng tim đập của mình. Gã nhân viên kéo chiếc hộp sắt hình quan tài nằm sâu trong vách tường. Nhẹ nhàng, cẩn thận như thể gã cũng ngại làm người nằm bên trong thức giấc.
30 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 82753)
...Anh là cơn gió chướng của đời em. Anh là nỗi ám ảnh không mặt mũi, nhưng tồn tại mãi trong ngăn kéo ký ức em. Em đọc được trong mắt anh ước muốn hoan lạc của một tình yêu với một thân xác. Một sự hoà hợp nhịp nhàng như sấm sét và mưa. Cho anh tan chảy như trăng trong ngõ ngách đêm.
30 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 90531)
... Thiếp không muốn về, cũng không muốn ngồi lên, cũng chẳng hề thấy lạnh. Thiếp chỉ muốn nằm đó, với chàng, muôn kiếp muôn đời gặm nhấm niềm yêu. Khởi đầu chỉ là những mưu toan mà trời ơi, sao người ta cứ phải dùng những tấm thân liễu yếu, sao người ta vẫn cứ phải nhờ vả chút nhan sắc bọt bèo.
30 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 78667)
Alexandre Lucien Abel de Rhodes mang gương mặt thống khổ và si mê của oan hồn chưa hề biết đến tình yêu. Những ai bắt gặp giáo sĩ những năm thánh chiến, thảng thốt nhận ra bóng ma mang nỗi buồn chín thối ruột gan của một người đàn ông chưa toại nguyện thân xác. Hôi thối đến nỗi những người lính Marốc của tiểu đoàn 10 Tabor tăng cường cho trung đoàn 3 Lê Dương phải bịt mũi trước xú uế nồng nặc bốc toả từ nhà thờ chính toà Cao Bằng.