- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Xóm Bờ Mương

08 Tháng Mười Hai 200812:00 SA(Xem: 124554)
xombomuon2_0_300x210_1Người ta làm đường hai bên sông. Con sông ngoan ngoãn nằm yên cho người loay hoay trên lưng. Người ta phát cỏ, chặt lùm, phá bụi, đắp bờ xi măng.. Con sông rùng mình. Con sông cuồng nộ giãy giụa. Trong lòng nó toàn rác, đầy rác, ứ những rác. “Hôi tanh quá, một con sông hôi tanh” ố ai cũng bảo thế, ai đi qua cũng bịt mũi. Ngày ngày mặt trời thả rong đàn nắng trên sông, đàn nắng không có mũi, chỉ có chân. Đàn nắng nhẩy lách tách, nhưng không có con gì chơi với chúng. Cá không lên đớp, bọ nước không chạy, bèo không mọc nổi, chúng trương phềnh và mục nát từ lâu rồi.

Cái ngày mà con sông mang bệnh, có một cô bé buồn lắm. Nó đan những lá tre thành thuyền, nó ghép cọng rau muống thành bè, trên bè chất đầy cọng cải non, rồi nó thả bè xuôi theo dòng nước. Thuyền không trôi. Con bé lấy que cời, rác dập dềnh lên xuống. Nó buồn lắm, chạy về khóc rưng rức trong lòng bà nội. Nội lưng còng tóc bạc, nội biết nội chẳng còn sống bao lâu, thế mà cháu nội còn nhỏ quá. Nội tuột hai cái bím của nó ra, lấy chiếc lược đồi mồi đã gãy răng chải xuôi mái tóc lưa thưa đen nhánh của nó. Nội chải miết, chải miết, chải được mươi phút thì con bé thiu ngủ, tóc nó rối bời ánh vàng trong nắng...

Cháu nội buồn thiu, nhưng nội biết làm sao. Nội ở bên con sông này từ hồi nó trong vắt, đến giờ nước đen sì, đời người trôi qua tự bao giờ, nội khô đét và giòn như than củi. Cháu nội buồn, nội cũng buồn. Cuối cùng nội đóng cửa quán nước, mặc quần áo sạch, đi tìm con trai.

Nội gặp con trong gian phòng nhỏ, giữa phòng là cái bàn dài, hai người ngồi đối diện nhau, cửa phòng có hai chú công an giữ.

- Cái Miên buồn lắm đó. Mẹ không biết phải làm sao nữa.

- Đêm qua con lại mơ thấy cô ấy. Cô ấy theo chuồn chuồn ớt về đỏ cả nhà mình, chật ních. Con không cựa quậy được. Rồi cô ấy cười váng lên. Tan vỡ cả.

-ừ! Sắp đến ngày giỗ nó rồi. Nhưng mà con nó khóc suốt ấy, mắt nó ứ những nước.

-Mẹ ơi! Nó có giống cô ấy không?

-Giống, ngày càng giống.

-Ôi con muốn gặp cô ấy quá.

-Lúc nào về con dỗ nó nhé. Nó khóc suốt ấy.

Hai người công an đứng dậy:

- Bà ơi! Hết giờ thăm rồi.

Nội bước đi rồi vẫn quay lưng lại, nói vớt:

-Nhớ dỗ nó đấy. Nó khóc tội lắm.

-Con muốn gặp cô ấy quá.

Vừa sinh con ra, nội đã mở quán nước này, vì nội chẳng biết làm gì nữa cả. Quán nước ghép lên bằng bốn thân tre già, thêm cái mái rạ và tấm liếp che, thế mà họ hàng đàng nội chục người xắn tay làm những hơn tuần. Làm xong họ an tâm, mỉm cười không béng mảng tới nữa. Ban đầu, nội hơi chạnh lòng, nhưng rồi cũng quên đi. Quán nước xơ xài, có tích nước, lạng chè, thuốc lào, đèn dầu, phong kẹo lạc. Dần dần nội mua nhiều thứ nữa, đủ sống, đủ nuôi con nội lớn lên.

Con trai nội khoẻ mạnh lắm, chưa ốm đau bao giờ, lại dễ nuôi, cho gì ăn nấy. Nó làm đủ thứ việc. Ai sai cũng làm, trả bao nhiêu cũng nhận. Mười bảy tuổi, nó dẫn về nhà một cô bụng chửa vượt mặt. Hỏi làm gì, cô nói: “ Chuyên đo cơ thể đàn ông”. Làm lâu chưa, cô nói: “ Từ khi chưa có nhu cầu đã được dạy rồi”. Kiếm được không, cô nói: “ Đủ để mua phấn son dài dài”. Bà mừng húm, đem khoe hàng xóm. Không ai trả treo gì. Nhưng khi bà về, họ rỉ tai nhau: “ Năm tháng trước tôi thấy con ấy đưa cho thằng giời ít tiền, bảo ấy đi, thằng giời ấy. Rồi năm tháng sau, đưa thêm tiền, bảo mày ấy tao nên cái ấy của mày. Thế mà con nhà giời gật đầu luôn. Buồn cười quá. Ha ha ...”

Hàng xóm không ai nói năng gì nhiều. Họ không quan tâm lắm. Họ cũng không cho con họ chơi với cô bé. Họ răn: “ Tao đập chết mày. Con đấy có máu điên. Mẹ nó làm điếm, bố nó giết vợ. Mày chơi với nó tao giết mày”.

Thế là con bé tha thẩn chơi một mình. Nó cũng không nhớ bố mẹ lắm, vì khi nó chưa dứt sữa, mẹ nó mất rồi. Hôm mẹ mất nó nằm trên võng, quấn chặt trong tã và chẳng biết gì, oe oe khóc vì khát sữa. Hôm ấy quán nội đến là đông khách, tiếp không xuể, họ cười nói rổn rảng. Hôm ấy bố đi giết chó hộ xóm bên, được họ cho một túi thịt . Vừa xách túi thịt, vừa cầm con dao, bố hể hả về. Lúc đó nó khóc thật to, rất to, nó đói. Mẹ nó run lên từng đợt: “ Nữa, nữa... đấy... mạnh vào, mạnh nữa vào, nhanh lên...”. Cái người cưỡi trên mẹ nó như mụ mị, hắn chẳng quan tâm tới tiếng cánh cửa mở mà cứ thúc, cứ đẩy. Mẹ nó thì rên rỉ, mẹ nó hét. Thế là bố nó nhào tới đâm. Chỉ mỗi mẹ nó chết, còn người kia chạy thoát. Bố nó vác dao đuổi theo. Người kia tồng ngồng chạy khắp xóm, máu từ tay đỏ thắm như hoa mào gà. Sau đó khi nó lớn lên, nội nói: “ Bố ở xa, mẹ cũng ở xa”.

Khi nó mười hai, nó cũng chỉ chơi với nội. Lần duy nhất nó nói chuyện với người ngoài là một thằng nhà bên cạnh, cách mỗi cái hàng rào gỗ, lớn hơn nó ba tuổi. Thằng ấy nói:

-Mày xinh nhỉ.

Nó đỏ mặt, núp sau gốc chuối cười.

Thằng ấy chui qua hàng rào, tới gần nó nói khẽ:

- Mày cho tao xem cái ấy đi, rồi tao cho mày sờ.

Thằng ấy vừa tụt quần ra thì mẹ gọi. Đang giữa trưa mà mẹ thằng ấy quát váng lên. Thằng ấy vội nhoai về, tiếng roi cứ là vun vút. “ Thằng chó dái. Mẹ nó là điếm, bố nó đồ tể, tao cấm mày”. Rồi bố thằng ấy xây bức tường gạch cao quá đầu người, trên cắm mảnh chai chi chít. Hôm sau, rồi các hôm sau nữa, cứ khi mặt trời lên đỉnh đầu, nó lại đứng sau cây chuối gọi: “Anh ơi! ... anh ơi!...” Có hôm nó hét: “Em tên là Miên...”. Nghe nhà bên có tiếng nước xối mạnh, nó lao vào nhà, chui lên giường, trùm chăn cười sặc sụa.

Hồi con bé mười tuổi, người ta làm con đường bên sông, cắt phăng cái cầu tiêu và một phần vườn, trơ mỗi ba thân chuối. Thế là dọc cái xóm bờ mương này nhà nào cũng có hai cửa ra vào. Chẳng ai nhớ vì sao lại có tên là xóm bờ mương nữa, rõ ràng đây là sông hẳn hoi. Chắc gọi thế để phân biệt với xóm chợ phía trên. Bờ mương hẳn thuận miệng hơn bờ sông. Mọi thứ dịch chuyển cả, quán nội cũng ít khách hơn. Xe cộ ào ào tấp nập ngược xuôi. Nội nhốt hẳn nó trong nhà, không cho ra sông chơi nữa. Bấy giờ con sông đã sâu hoắm.

 

Nó lớn dần, lớn dần, da trắng bóc, tóc xổ tung, môi thắm, chỉ tội ánh nhìn dài dại.

Quán nước của nội có bà xồn xồn rất hay ngồi. Một hôm, bà rỉ tai nội:

- Già ơi! Cháu già đẹp quá, đẹp như hoa giữa đồng hoang ấy. Thế mà lại điên, rõ tội.

Nội rớm nước mắt.

-Khí cả vùng này nó là nhất đấy.

-Đẹp thì khổ chứ sướng gì hả cô.

-Gớm. Ai bảo già là khổ. Nhìn xem, thiên hạ gái đẹp sướng như tiên ấy.

-Hồng nhan bạc mệnh cô ạ.

-Xưa lắm rồi già ơi. Thời nay cứ đẹp là ra tiền.

Nội tu tu khóc.

-Thế già có muốn nó hết điên không, con tìm cách chữa cho.

-Thật hả cô? chữa được hả cô?

-Được chứ sao không.

-Ôi! thế thì phúc nhất đấy.

-Con chẳng đòi gì đâu, chỉ muốn nhận cháu là con thôi. Gớm, tuổi như con, xế chiều rồi mà không có cháu bồng, tội lắm bà ơi...

Thế là hai người họ ôm nhau khóc. Hôm sau có ba người trung tuổi ngồi trong nhà nội, họ nhìn nó, cái nhìn dài dại. ở quán, nội thắp hương khấn thiên địa, tổ tông một tràng rồi lại ôm bà xồn xồn khóc, xuýt xoa, kể lể.

Trong nhà, nó trốn sau thân chuối gọi “ Anh ơi! anh ơi!” rồi chui lên giường, trùm chăm cười. Gã to con nhất tới bên nó, từ từ cởi quần áo. Nó không hiểu, nghịch ngợm đấm, đạp, giựt. Gã nhỏ nhất túm tay nó quặt lên trên, gã trung bình kéo chân. Còn gã to con thì hùng hục làm. Nó đau, một cái gì đấy xé toạc, kéo theo cái gì đấy trỗi dậy, lập loè hút xoáy trong chuỗi tách rời của những dây thần kinh. Từng thớ thịt trên người nó run rẩy rồi oằn oại chuyển động. Nó thét dài man dại, mắt long xòng xọc, xùi bọt mép... Gã nhỏ con ấn khăn vào mồm nó cố hoàn tất công việc. Những tia hồng loang nhanh trên chiếc khăn nhét trong mồm. Gã to con vội bóp mạnh quai hàm, ngáng đũa cả vào răng, trói nghiến lại, đắp chăn, rồi ba gã từ tốn mặc quần áo, đi về.

 

Thế mà nó hết điên thật.

Nó lại khôn hơn lũ con gái cùng lứa. Đàn bà rỉ tai nhau: “ Đúng là được ba thằng khoẻ hiếp có khác”. Nó lại đẹp nhất vùng. Không ai còn gọi nó là điên nữa, nhưng cứ hinh hích cười: “ Ba nhé, những ba cơ đấy nhé”. Đàn ông trong vùng đờ đẫn khi nó bước qua, tóc buộc cao, váy ngắn, chân thẳng, hai núm ngực nhấp nhô. Nó xưng con, gọi mẹ với bà xồn xồn. Nó mang về rất nhiều tiền. Bữa nọ gió mát, nó chuyển sang nhà bà ở, rồi thưa về bên nội hơn, rồi thoảng hoặc mới về. Rồi một hôm, nó pha thuốc mê, nhét giẻ vào mồm, trói nghiến bà lại, lấy hết tiền bạc bỏ đi mất biệt...

Lúc đầu nội buồn lắm, nội lại ra đứng bên bờ sông nhìn. Nhưng dòng nước đen sì, đặc quánh, bốc mùi thum thủm. Vài nhân viên vệ sinh cời rác phía dưới nhìn nội nghi hoặc. Càng ngày nội càng hay thở dài hơn, nhưng vẫn trông quán nước đều đặn. Khi con trai nội về thì nội đã già và lẫn lắm rồi. Suốt ngày nội bảo:

-Hoa cải nở vàng chưa con?

- Chuồn chuồn đỏ bay chật nhà mẹ ạ.

- Thế à? Nhiều thế à? Vàng thế à?

Không biết lúc ấy con sông chết chưa, nhưng chẳng ai trong vùng nhắc đến nó nữa, họ gọi đấy là xóm bờ mương.

PHẠM NGỌC LƯƠNG
11.12.2005

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80682)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.
28 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 85688)
Con tàu đã trở nên ọp ẹp, mấy mươi năm còn gì. Người ta nói đây là chuyến tàu tốt nhất hiện nay. Hành khách bực dọc phàn nàn tốt gì mà tốt, như đống sắt vụn, làm như họ là kẻ trên trời rơi xuống không bằng.
23 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 88883)
Tình yêu, cũng như chiến tranh, là hai đề tài muôn thuở của con người. Văn chương ngoại quốc nói về chiến tranh, viết về những trận chiến gần, xa trong lịch sử, chúng ta vẫn thích đọc. Vậy thì tại sao, người Việt Nam viết về chiến tranh Việt Nam lại nhàm chán?
20 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 92113)
... Tôi đã từng ăn thịt chuột. Tôi ăn vụng của em tôi. Bố cấm tôi nói cho ai biết. Bố đã cho thằng em tôi ăn bao nhiêu con chuột tôi cũng không nhớ nổi. Chỉ có điều bố thích như vậy. Bố nướng con chuột lên, thế thôi. Thằng em tôi cười hềnh hệch, nước dãi chảy dài, cầm con chuột gặm như một bắp ngô nướng. Những tảng máu chưa đông rịn đỏ hai mép. Tôi thấy đầu mình ung ung. Những hình ảnh như những mảnh vỡ lộn xộn va đập vào nhau liên hồi ...
20 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 89835)
Không ai biết cuộc sống của ai đang xáo trộn. Không ai biết ai đang nghĩ gì. Người chồng không bao giờ biết người vợ vừa gối đầu lên tay mình vừa dâm hoan với sếp của ả trong giấc mơ. Gã sếp đô con, bụng cuộn lên những bó cơ và làm tình thì miễn bàn. Người chồng không bao giờ biết âm hộ của ả nóng bừng như muốn nổ tung ra. Mà biết cũng chẳng thể chết ai vì ả là vợ của anh ta.
19 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 111300)
(Gởi anh Huy & chị Minh) Câu thơ còn trong trí nhớ Như mùa thu mỗi năm lại về Theo tuần hoàn trời đất Như đôi mắt em buồn giấu kín Chịu đựng An phận Cuộc đời mình mùa xuân đi qua Rất xa, rất xa...
19 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 91902)
Thành phố nằm bên một rẻo biển miền Trung yên bình và tĩnh lặng. Những ngày gầ n đây bổng nhiên được khuấy động bởi mấy chú cá mập, không hiểu vì sao lại lang thang vào bờ, chúng lượn lờ nơi bãi tắm trước khuôn viên trường, là bãi du lịch của thành phố. Thỉnh thoảng chúng lại ruỗi theo sóng nước cợt nhã với con người. Có hôm một chú cá mập con nhá vào mông ai đó, có hôm lại ngoạm vào giò của kẻ nào bơi đến gần. Bạn tôi phán: đất này “linh kiệt”. Tôi cười vui: Đất lành chim đậu, biển lành cá mập làm tổ .
19 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 91422)
Trong tình bằng hữu nhiều năm với Huy, được sự đồng ý của chị Cao Xuân Huy và hai cháu Chúc Dung & Xuân Dung, bài viết thiên về khía cạnh y khoa này, nói về một Cao Xuân Huy khác, người bệnh Cao Xuân Huy chênh vênh trên con dốc của tử sinh, đã can trường chống chỏi với bệnh tật cho tới những ngày và giờ phút cuối cùng và đã ra đi với tất cả “phẩm giá”. NGÔ THẾ VINH
19 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 81699)
Cao Xuân Huy có người cha đi kháng chiến, để lại vợ con trong thành. Rồi, 1954, ông ngoại bị đấu tố, người cậu cấp bách đem cháu, 7 tuổi, vào Nam. Mẹ ở lại Hà Nội đợi bố. Về, nhưng người cha kháng chiến, gốc tư sản, địa chủ, không thể "can thiệp" cho người mẹ khỏi diện "tự lực cánh sinh" (như đi "kinh tế mới"). Rồi họ chia nhau con cái: mẹ để lại con gái cho bố, vào Nam với con trai. Xa cách, mỗi người lập một gia đình khác, có các con khác. Huy được cậu và bà ngoại nuôi. Như một định mệnh, chuyện nhà Huy trùng hợp với chuyện đất nước, với truyền thuyết Sơn tinh Thủy tinh, với bao gia đình thời chia đôi Nam-Bắc.
19 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 86164)
Thường, khi viết về một nhà văn, trong vai trò của một người làm phê bình, tôi chỉ quan tâm đến tác phẩm, đến văn bản. Đúng hơn là tôi quan tâm đến văn bản văn học, và cái cách mà tác giả của nó đã, cùng với các độc giả của mình, biến nó thành một tác phẩm văn chương. Tôi không quan tâm lắm đến tác giả.