- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Santiago Sylvester – Thi sĩ dấn thân gì ?

08 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 31429)

thi_si-tv3

Santiago Sylvester là nhà thơ, nhà văn viết truyện ngắn người Á Căn Đình, sinh năm 1942 tại Salta và từng sống gần hai thập niên tại Tây Ban Nha trước khi quay về Buenos Aires. Ông nhận nhiều giải thưởng quốc gia về nghệ thuật, giải thi ca toàn quốc Á Căn Đình và đặc biệt Grand Prix International Jorge Luis Borges. Santiago Sylvester thường được nhắc đến qua hai tác phẩm El Reloj Biológico (2007) và Oficio de Lector (2003).

“Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh?” là một tranh luận lâu đời giữa các nhà văn. Tại Việt Nam, câu hỏi này chìm khuất vào trong chiến tranh rồi chịu kiểm soát của Ban Tuyên giáo. Tại Nam Mỹ, dấn thân vẫn còn là nguyên liệu của sáng tác và Santiago Sylvester nhắc lại một lần nữa ý nghĩa cùng điều kiện của dấn thân. [Trần Vũ]

thi_si-tv1-content

Trên nền cách mạng công nghiệp, thế kỷ 19 đặt một câu hỏi bấy giờ còn mới lạ: Nghệ thuật phải ích lợi hay chỉ đi tìm cái Đẹp lý tưởng? Sang thế kỷ sau, sự tra vấn này hừng lên với màu sắc chính trị. Nhưng trước hết, còn cần phải xem liệu đem thẩm mỹ đối lập với hữu dụng là chính đáng. [Le Monde Diplomatique]

 

Jorge Luis Borges từng quả quyết là từ ngữ “nghệ thuật dấn thân” gây cho ông cùng một cảm giác tựa như khi nghe nói đến “cách cưỡi ngựa Tin Lành”[1]: quá thiếu nghiêm túc để không trượt vào phi lý. Borges nhắc lại sự khó chịu của mình đối với một tính từ được dùng khá phổ biến trong nửa sau thế kỷ 20. Tuy vậy, từ ngữ ấy đã không quá vãng và dùng riêng cho một lối dấn thân: về chính trị. Có sự thâu hẹp phạm vi đến lạ lùng: ví dụ, đã có những dấn thân từ ngàn năm nay của nghệ thuật Tây phương trong lĩnh vực tôn giáo, đã tạo ra nhiều hình dung từ, Byzantin, Lãng Mạn, Gothique, hay chỉ đơn giản là Cơ Đốc — nhưng không hề có từ Dấn Thân.

Những lý do thâm sâu biện minh cho sự hiện hữu của nghệ thuật là phải ứng xử ra sao với chính trị, hay chính xác hơn nữa, trước chính quyền (giống như tình yêu, thần chết hay tín ngưỡng). Song, với tính từ Dấn Thân, thiết tưởng nghệ sĩ không những chỉ cần có một quan điểm chính trị mà còn cần lấy quyết định gần như ám ảnh là trưng bày chính kiến ấy, thậm chí khẳng quyết là nghệ thuật có thể dùng làm công cụ chuyển đổi xã hội. “Thay đổi cuộc sống”, theo ước muốn triệt để của Arthur Rimbaud, là tạo lập ra một cái gì khác, với nhiều phương án giả định.

 

Tại Châu Mỹ La Tinh, đã có một lúc, chưa quá xa, dường như không thể tách rời nghệ thuật ra khỏi chính trị, hay tinh thần tranh đấu; và rồi tính từ Dấn Thân trở nên có vẻ mạnh hơn là danh từ Sự Dấn Thân. Chính trong sự mất quân bình này cần phải tìm nguyên nhân gây mất uy tín ít nhiều cho từ ngữ “nghệ thuật dấn thân” và tất nhiên, về bình luận của Borges. Bởi vì nếu “sự dấn thân” thật sự đi cùng với một đổi mới quan trọng (ví dụ nền thi ca nổi lên từ cách mạng Mễ 1910) và nghệ sĩ bắt buộc phải suy nghĩ về vị trí của hắn trong tiến trình lịch sử, vận động này cùng lúc áp đặt một khuôn sáo: thứ ngôn từ của nghệ thuật gồng gánh thông điệp; nếu không, chúng ta bị kết án là duy mỹ, rơi vào thẩm mỹ suông. Con đường được lát bằng những ý định tốt, nhưng thường kết thúc thất bại… Một số đông nghệ sĩ đã chết, để lại một cách nghịch lý, nghệ thuật y nguyên như họ đã tìm thấy. Dĩ nhiên có những biệt lệ. “Trên Đỉnh Machu Picchu” của Pablo Neruda, nhằm tôn vinh Châu Mỹ La Tinh, chạm đến chiều kích thần thoại bằng cách ngợi ca một vùng đất, một lịch sử, với tính cách anh hùng vô danh của một dân tộc. Tác phẩm đầy ấn tượng, vừa trong đề tài, vừa trong cách nhìn.

 

Ngay cả khi cách đặt vấn đề về duy mỹ chiếm phần lớn những tranh luận nghệ thuật trong thế kỷ hai mươi và những thái quá kéo theo phản ứng (nhà văn Đức Gottfried Benn từng viết: “Nếu ai buộc tội anh theo trường phái duy mỹ, cho hắn thấy lợi ích: hắn còn sống trong hang động tiền sử.”) ― sự “dấn thân,” trong hay ngoài ngoặc kép, vẫn chính đáng. Tuy nhiên (luôn có tuy nhiên), người nghệ sĩ không thể không quan tâm đến chất liệu đặc thù mình sử dụng, trong cách mình vận dụng, có nghĩa bằng cách nào: từ cấu trúc, đến hình thức, những gì giúp vật được thao tác tạo lập mối liên kết với những gì vây quanh. Người nghệ sĩ, như vậy ― chuyên tâm vào thể nghiệm sáng tạo của mình ― không thể quên rằng hiện tại luôn can thiệp xuyên qua hình thức, và hình thức này mang dấu triện của thời gian: thế giới quan luôn dính liền vào thời đại sản sinh ra những hình thức tương ứng. Chính ý thức này cho phép phân biệt giữa sáng tạo (poïésis)[2] với việc nhai lại một công thức. Nghệ thuật dấn thân bằng những chủ đề chọn lựa, và bằng mối quan hệ với ngôn ngữ: một ngôn ngữ có khả năng chụp bắt thế giới thật, đòi hỏi kết hợp trí tưởng tượng, cũng giống như huyền thoại và truyền thuyết được trộn lẫn với lịch sử.

 

Cách đây đã bốn mươi năm, Octavio Paz phát biểu về một “truyền thống của cắt đứt.” Paz đề cập đến việc tìm kiếm những hình thức mới, khởi đi từ những trào lưu tiền phong, đã tiến hành suốt gần hết thế kỷ 20, cho mục đích hiện đại hóa hình thức. Paz nhận chân, như ông đã tuyên bố, là việc lập lại sự đoạn tuyệt đã khai sinh ra một truyền thống thật sự. Paz tố giác như thế, một mâu thuẫn hiển nhiên: Những kẻ khăng khăng đoạn tuyệt với truyền thống, sau cùng đã tạo lập ra một truyền thống khác. Điều này bắt buộc đặt lại vấn đề làm ra cái Mới, dính liền vào với vấn đề của Dấn Thân, hai mặt của cùng một ý chí sáng tạo. Tuy vậy, song hành với “truyền thống của đoạn tuyệt” này, đã luôn hiện hữu một xu thế khác, có thể quan trọng hơn, là “truyền thống của kiến tạo,” nổi lên mỗi một khi một nghệ sĩ tự đề xuất tạo tác những cấu trúc mới sau khi dùng cạn những cấu trúc cũ. Thời hoàng kim Tây Ban Nha sẽ không kết tựu nếu thiếu cấu trúc castillane của những vần thơ mười hai âm tiết xuất phát từ Ý, được các thi sĩ Garcilaso de la Vega và Juan Boscán du nhập vào Tây Ban Nha. Cũng sẽ không kết tựu thời Hiện Đại nếu thiếu sự đóng góp của thơ Tự Do, hay không kết tựu sự mẫn cảm thi tính hiện nay nếu thiếu sáng tạo hình thức vào đầu thế kỷ 20. Không nhất thiết phải theo cách của Filippo Tommaso Marinetti, tìm cách phá sập để xem sản sinh ra gì từ sự rung chuyển này, nhưng là thay thế những công thức tàn tật bằng những công thức khác đã cải tiến. Stéphane Mallarmé, Thomas Stearns Elliot, Guillaume Apollinaire, Marianne Moore, Saint-John Perse, Carlos Drummond de Andrade, Rubén Dario hay César Vallejo, chỉ kể tên một vài người, gần như ngẫu nhiên, đã là những kiến tạo gia xuất sắc.

 

Trong lĩnh vực của những quan niệm đối lập, sự dấn thân của nghệ thuật nằm ở đâu? Ở ngay chính giữa. Sự dấn thân của nghệ sĩ, kẻ kháng cự lại thời gian, gắn liền với những vấn đề sâu xa nhất của xã hội, mà không đi cùng với các chính sách chính trị. Đến một thời điểm, sự khẩn cấp của hiện trạng đòi hỏi nghệ sĩ làm người chứng rõ ràng. Cách thức tham dự này, có thể sẽ tái diễn vì cần thiết, nhưng hôm nay đã mất đi sức vóc.

Tuy nhiên, sự dấn thân trong nghĩa rộng, có nghĩa sự cần thiết cho xã hội, từ những cộng hưởng với xã hội, căn bản vẫn tồn tại. Sự cộng hưởng này khó dự báo. Ví như một bài thơ của Borges đã tạo ra một tương tác, không có nghĩa là bài thơ ấy mang chất dấn thân, và nếu thi ca của Francis Ponge được xem là thi ca dấn thân, không có nghĩa thi ca này xử lý những câu hỏi thời sự. Đây là những tác phẩm đã giao cảm được với xã hội, được xã hội cảm thụ tuy không hề được khẩn cầu xuất hiện.

 

thi_si-tv2-contentChỉ cần ném một tia mắt ra thế giới: nghệ thuật dấn thân không thiếu những biện minh. Nhưng chúng ta sẽ không trở nên những nghệ sĩ tài hoa nhất bằng những biện minh: mà chỉ là những ủy viên tuyên truyền mẫn cán. Không phải sự tố giác một hệ thống, đã được thực thi trong nhiều lĩnh vực, đem đến tính hợp pháp nghệ thuật.

Ở đây, chúng ta không bảo vệ hình thức chỉ để bảo vệ hình thức. Trong một cuộc trò chuyện với Javier Adúriz, thi sĩ Á Căn Đình này nói với tôi: “thi sĩ phải nói những điều gây ấn tượng.” Adúriz không yêu cầu phải viết về rồng lửa hay những vụ sát nhân vì tình, nhưng nhấn mạnh là tác phẩm phải cho chúng ta nhìn thấy một chuyện gì đó, mà đến khi ấy, chúng ta chưa biết đến. Làm thành một phong trào phát hiện ra cách chiếu sáng. Và những từ ngữ, cấu trúc, định dạng, cho phép cách chiếu sáng này. Chính từ đây những chủ đề được trông đợi nhiều nhất, như tình yêu, tôn giáo, hay chính trị sẽ biến hóa trở nên “ấn tượng.” Vậy thì đúng, nghệ thuật sẽ được xem là dấn thân với tiêu chuẩn nghệ thuật, như “Trên Đỉnh Machu Picchu,” nhưng không còn tính nghệ thuật chân chính, một khi Neruda ca tụng, không chút liêm sĩ, thiên thần Trung Ương Đảng Cộng Sản[3].

 

Sau chiến tranh, trong thời kỳ thô nhám lúc này khi sự dấn thân chính trị rõ rệt biểu hiện một cấp bách, một thư ký của nhà xuất bản Einaudi đã nói với Cesare Pavese, một văn gia Ý vừa cho xuất bản một tập tiểu thuyết: “Giới thượng lưu và cả giai cấp vô sản sẽ không ưa tiểu thuyết này.” Pavese đã ghi trong nhật ký lời chú vắn tắt: “Tốt.” Không có nghĩa là nhà văn chấp nhận lời phê phán. Pavese công nhận một cách đơn giản là nghệ thuật phân xử những con đường khác nhau để đạt đến mục đích, và ông nhìn đúng.

 

Santiago Sylvester, 08-2011

(Trần Vũ dịch từ bản Pháp văn “A quoi s’engage le poète” đăng trên trang văn học của Le Monde Diplomatique số tháng 8, 2011)

http://www.monde-diplomatique.fr/2011/08/SYLVESTER/20870

 

Phụ chú của người dịch:

[1] Qua cách trình bày của Santiago Sylvester: Đối với Borges, dùng từ “nghệ thuật dấn thân” cũng phi lý như dùng từ “cưỡi ngựa Tin Lành,” khi ghép Tin Lành là một tôn giáo siêu hình vào cưỡi ngựa là việc hoàn toàn cụ thể. Với Borges, không có “nghệ thuật dấn thân” hay “nghệ thuật không dấn thân,” chỉ có nghệ thuật mà thôi. Cũng như không có cách “cưỡi ngựa Công Giáo” khác với cách “cưỡi ngựa Tin Lành.”

[2] Poïésis mang nghĩa “làm ra” trong tiếng Hy Lạp cổ đại. Từ gốc của thi ca (Poésie) hiện đại, như vậy ban đầu là một động từ: Một hành động vừa làm biến đổi vừa làm nối tiếp thế giới. Không là sản phẩm kỹ thuật, cũng không là một tạo tác trong nghĩa lãng mạn, tác phẩm mang tính Poïésis giao thoa tư duy với vật chất và thời gian, và con người với vũ trụ.

Theo http://poiesis-architecture.com/

[3] Qua hình ảnh thiên thần, Santiago Sylvester muốn phê phán Pablo Neruda, từng là đảng viên, đã ca ngợi và cổ võ cho tiêu chí thẫm mỹ của nền văn nghệ phục vụ đảng cầm quyền.


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33943)
R ồi cũng đến lúc không còn để nói câu tiên tri nở trắng cánh phù dung rồi cũng đến lúc không còn để đợi khúc tình xa rớt lại giữa lưng chừng
22 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33644)
B ạn tôi dậy cho tôi viết ca khúc Sau 3 tuần bắt tôi viết 8 tiểu đoạn Tôi ghi note cho từng tiểu đoạn Tất cả đều không có gì sai Bạn dạo những note kia bằng dương cầm Tôi nghe những âm thanh là lạ Bạn nói với tôi  Cái này không phải nhạc Hiền ơi…
21 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 31824)
MKDSNM được phát hành vào một thời điểm rất ý nghĩa, ngay sau Hội nghị Thượng Đỉnh Mekong II / MRC Summit II vừa diễn ra tại Thành Phố Sài Gòn ngày 5 tháng 4, 2014. Hội nghị này đã được giới quan sát quốc tế và các nhà hoạt động môi sinh đánh giá như một thất bại về phía Việt Nam trong nỗ lực bảo vệ sự phát triển bền vững hệ sinh thái Sông Mekong, và ĐBSCL, cũng là mạch sống của ngót 70 triệu cư dân sống trong lưu vực.
21 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 36382)
K hi về đã lạnh vườn xưa Chỉ nghe giá rét sang mùa mà thôi Giờ em heo hút phương trời Biết chăng đây có một người nhớ thương
19 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34658)
Q ua một loạt truyện gởi đến độc giả Hợp Lưu gần như liêu trai và siêu thực, Uyên Lê tâm sự: “ Em chỉ thích viết về quê hương này, về Việt nam, có những điều đẹp như hoang đường ... Chỉ có yêu thật lòng người ta mới thấy cái đẹp của người mình yêu. Em viết về Phan Thiết và nước mắm rất nhiều, em cho đó là cái đẹp và tình! Em cũng viết nhiều về Huế… em không biết HL có thích chất tự tình quê hương đó của em không…” Chúng tôi xin gởi đến quí bạn đọc một bài viết về Phan Thiết của tác giả Uyên Lê.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37297)
C hỉ còn một góc phố Và một ngã tư chơ vơ không người chờ đợi Em đi qua hôm nào anh đâu biết Một nửa tình buồn lạc nhịp ngoài đêm
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 32209)
Đ ồng hồ cũng dừng lại đối với những người phải bỏ nước ra đi, sau khi ông Trần Mai Hạnh và bạn bè của ông vào Sài Gòn. Họ ra đi từng đợt: đợt di tản, đợt thuyền nhân, đợt đoàn tụ gia đình, đợt H.Ọ Mỗi đợt ra đi mang theo một loại quê hương, và trong hoài niệm, không ai muốn thay đổi hình ảnh thân yêu ấy. Bạn bè, nhà cửa, phố xá, tên đường tên đất, cả đến ngôn ngữ trao đổi thường ngày...giống như một cuốn phim đột ngột bị đứt, ngưng lại, thành tĩnh vật.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37729)
T hế kỷ chúng tôi trót buồn trong mắt Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư. {Bây giờ} Qua hai câu thơ đó Nguyên Sa đã diễn tả tâm trạng của thế hệ ông, thế hệ của những người trai trẻ ở miền Nam thời 1954-75, đã nuôi nhiều kỳ vọng cho tương lai đất nước, nhưng chẳng bao lâu đầy tuyệt vọng trong một quê hương khói lửa.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34673)
T ôi mãi bước trên con đường uốn cong chữ S móc nhau nối xích lại gần để biến dạng một hình lưỡi câu đu đưa trước cuống họng khát giữa tiếng rền than
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 35226)
LTS: Một năm rưỡi trước khi từ trần, tướng Trần Độ đã hoàn thành một tập nhật ký mà ông đặt tên là Nhật Ký Rồng Rắn: bắt đầu từ cuối năm 2000, viết xong tháng 5 năm 2001. Nhật ký Rồng Rắn là một bút ký chính trị trong đó, với tất cả tâm huyết, tác giả trình bày suy nghĩ của mình về các vấn đề chính trị của đất nước. Tháng 6.2001, Trần Độ vào Sàigòn thăm con và nhờ người đánh máy bản thảo. Ngày 10.6, ông đi lấy bản thảo, bản vi tính và sao chụp thành 15 bản. Trên đường về nhà, ông bị tịch thu toàn bộ các bản thảo và bản in chụp, xem là "tang chứng" của tội "viết và lưu hành tài liệu xấu". Cho đến ngày từ trần 9.8.2002, tướng Trần Độ không được trả lại nhật ký của mình. Trích đoạn dưới đây là một phần của nhật ký này. {theo tạp chí Diễn Đàn}.