- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Nguyễn-Xuân Hoàng, Văn và Tôi….

08 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 52984)


nxh-caolinh-content
  Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng - Ảnh Cao Lĩnh


Tháng 5 năm 2008

 

Cô bạn đến nhà chơi hỏi sao lâu quá không thấy tôi có tạp chí Văn mà chỉ có tạp chí Hợp Lưu thôi. Tôi trả lời - chắc trễ - Văn hay trễ.

 

 

Tháng 7 năm 2008

 

Phòng làm việc của tôi có một bệ cửa rộng như bề ngang của một kệ sách nên tôi dùng nó như một tầng của kệ sách để đựng những quyển Văn và Hợp Lưu. Bạn bè đồng nghiệp người Mỹ hay mở ra hỏi tôi đây là sách gì? Tôi giải thích và thường là xem thử nó tương đương với tờ gì bên tạp chí tiếng Mỹ để so sánh cho dễ. Nhưng khổ nổi, ngoài những tạp chí liên quan đến nghề nghiệp, tôi rất ít biết đến những tạp chí văn chương tiếng Mỹ. Thế là đành chịu thua.

 

Thỉnh thoảng, mỗi khi mệt mỏi với công việc, tôi hay mở những quyển Văn hay Hợp Lưu cũ ra đọc đi đọc lại trong khi chờ đợi cuốn mới. Lần này tôi mở quyển Văn cũ ra đọc. Thường khi mở ra, tôi luôn tìm đọc những bài sổ tay của nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng trước tiên, nhưng sao hôm ấy tôi lại đưa mắt liếc nhìn trang thứ hai của tờ bìa, thấy đia chỉ email của toà soạn và nảy ra ý định viết vài dòng hỏi thăm lý do chậm trễ. Có thể tôi đã từng thấy địa chỉ toà soạn trong nhiều năm qua, dễ chừng đến 20 năm, nhưng tôi chưa bao giờ biết dùng nó vào việc gì.

 

Tôi nhớ tôi viết “Kính gửi toà soạn báo Văn. Đã lâu tôi không nhận được báo không biết là ngân khoản của tôi đã hết hạn mà tôi chưa gia hạn hay tờ Văn có vấn đề gì? Làm ơn cho biết tin. Cảm ơn toà soạn”. Viết chỉ để viết chứ không hề mong sẽ nhận được thư hồi âm bởi có bao giờ thắc mắc và gửi hỏi lý do đâu.

 

Nhưng bất ngờ thay, sáng ra mở hộp thư, thấy thư trả lời của toà soạn nằm ngay ngắn ở hộp thư. Lòng có chút vui mừng, nhưng niềm vui vội tắt ngay khi đọc được “Kính gửi chị…..Tạp chí Văn đã đình chỉ đã vài tháng rồi nhưng chúng tôi chưa thông báo cho độc giả kịp. Thành thật xin lỗi chị”. Một cảm giác hụt hẩng và bàng hoàng xâm chiếm hồn tôi. Một mất mác vô cùng lớn bỗng làm tôi xốn xang như tôi vừa đánh mất một điều gì quí giá trong cuộc đời mình. Người ta hay nói phải mất rồi chúng ta mới nhận ra là mình yêu quí biết dường nào! Rất đúng với tôi trong trường hợp này.

 

Tôi đã không thắc mắc khó chịu vì sao báo đến trễ bởi tôi đọc những bài sổ tay lúc nào cũng kèm theo một lời xin lỗi. Tôi đã không thắc mắc bởi tôi biết tờ báo đã sống còn là do lòng yêu văn chương và tấm lòng tha thiết giữ gìn văn hoá quê nhà của một số văn nghệ sĩ yêu chuộng văn thơ, ngoài giờ làm việc chính, kiếm cơm hàng ngày, đã bỏ thì giờ và tiền bạc lo cho tờ báo chứ họ không thể sống bằng nghề làm báo. Thế nên khi nào báo đến thì đọc, sự trễ muộn của tờ báo chẳng làm phiền lòng tôi chút nào cả.

 

Trở về với email hồi âm. Phiá dưới email có chữ ký không viết hoa “nxh”. Phải nói là ba chữ nxh đã bắt tôi chú ý và tôi đã nhận ra chữ ký này, đó là chữ ký của nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng. Lòng tôi thật là vui, vui lắm. Vui vì đây là lần đầu tiên tình cờ tôi nhận được vài dòng trả lời của một nhà văn mà tôi mến mộ và yêu thích và đây cũng là cơ hội đầu tiên tôi liên lạc với một nhà văn.

 

Mỗi khi cầm tờ Văn trên tay, bài đầu tiên tôi đọc là sổ tay của ông nhưng tôi không biết gì về ông ngoài những bài viết ấy. Tôi vẽ ra một Nguyễn-Xuân Hoàng ít nói, trầm tư và rất thông minh nhất là khi ông đưa vào một vài câu đối thoại ngắn gọn để chuẩn bị đào sâu vào tâm tư tình cảm hay tính cách của nhân vật, một người rất tiết kiệm lời chê bai ngay cả khi ông không bằng lòng về một điều gì hay với một ai và điều này đã ảnh hưởng vào suy nghĩ của tôi rất nhiều. Ông mang vào những bài viết cái triết lý sống một cách rất tinh tế nên không làm người đọc cảm thấy là ông đang dạy đời. Ông luôn quí tình bằng hữu còn hơn bản thân ông. Nhưng bên cạnh những cảm nhận ấy, tôi cũng đọc được ở ông một người rất cô đơn, cô đơn ngay chính với ông. Một con người có đôi khi không tha thiết với trần gian này. Sự ra đi luôn ám ảnh ông. Tôi không biết là ông đã từng tuyệt vọng về điều gì? Tôi không hề biết gì về cuộc đời ông nhưng tôi có thể đọc ở ông, bởi tôi cảm thấy được rằng, hầu như tất cả những chi tiết, những tính cách, những nhân vật mà ông tạo ra từ những kinh nghiệm vui buồn đau đớn của chính bản thân ông nằm ở giữa, ngay ở trong từng tác phẩm của ông. Ở tác phẩm “Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu”, dù là những lá thư gửi Em yêu dấu mượt mà và lãng mạng nhưng chẳng phải là những lá thư riêng tư. Ông như đã gửi nỗi lòng ông cho tất cả mọi người cái đau đớn mà cuộc chiến mang lại, nỗi thống khổ dằn vặt của những chia xa. Thật vậy, ông đã thả vào trong tiểu thuyết của ông những sắc bén, ngọt ngào, những cao thượng hay hèn hạ trong từng nhân vật rất dứt khoát và rõ ràng và vì thế ông đã làm người đọc không phân biệt được đâu là tiểu thuyết đâu là tự sự. Nó bàng bạc nỗi đau nhân thế, nỗi đau chiến tranh, nỗi đau thân phận làm người chậm rãi mà thấm sâu. Nó làm người đọc muốn đọc lại, muốn suy gẫm, muốn đào sâu vào từng chi tiết. Nhưng lúc nào nó cũng làm người đọc nhẹ nhõm ở phút chót, phút giây kết luận như là một số phận!

 

Và một chi tiết nữa mà tôi có thể đọc được ở ông là một thơ ấu không dễ chịu, một thơ ấu không bình yên luôn dày vò ám ảnh ông. Bãi biển quê nhà với những lúc một mình cô đơn đến độ tàn nhẫn và quá lạnh lùng. Ông mang nó theo bên mình, trong những tác phẩm ở một góc độ thật mạnh mẽ. Tôi muốn nói là ông đã không rên rỉ. Lối viết của ông như mũi dao cứa vào quá khứ làm rỉ máu chứ không phải là những than thân trách phận làm độc giả mũi lòng dăm ba phút rồi quên!

 

Trong bài Barbara, khi ông kết luận “Có một nơi chứa đầy mâu thuẫn, đó là trái tim của chúng ta”. Tôi tin thế và nếu ai có một trái tim nhạy cảm sẽ biết sự mâu thuẫn này nó như thế nào. Có thể nó làm ta lên cơn sốt. Nó không thể là trắng hay là đen. Nó là một màu xám buồn của những đám mây đang kéo về trên bầu trời bão tố.

 

Không biết là tôi có nói quá về ông, nhưng đó là những gì mà tôi cảm nhận được, đọc được ông trong những tác phẩm của ông dù rất muộn màng! Khi ông nói ông đã bất công khi không thích đọc những tác phẩm của Bình Nguyên Lộc trong bài viết Bình Nguyên Lộc ở U Minh, tôi cũng nghĩ tôi đã bất công đối với ông và với rất nhiều tác giả trước 1975. Một bất công không tính toán và một muộn màng tình cờ cảm nhận được.

 

Muộn màng bởi thời mà tạp chí Văn đã có một chỗ đứng khẳng định trên văn đàn văn học và nghệ thuật, thời mà ông đã là thư ký của tòa soạn thì tôi còn nhỏ lắm và vì tôi ở tỉnh lẻ thành ra tôi không biết gì về Sài Gòn, về đời sống văn chương ở đó. Thật vậy, tôi đã chưa từng đọc hay biết là chúng ta đã từng có tạp chí Văn, Khởi Hành, Sáng Tạo hay Bách Khoa... Tôi chỉ biết Thằng Bờm với những chuyện cười, thêm chút nữa là Tuổi hoa, Tuổi ngọc trước khi tôi bị cắt đứt với văn chương nghệ thuật miền nam bởi biến cố mùa xuân 1975. Vậy mà một chút chỗ này, một chút chỗ kia về Sài Gòn, về đời sống sinh hoạt của giới văn chương Sài Gòn trong những tác phẩm của ông đã cho tôi như sống trong thế giới của một thời mà tôi không có cơ hội chạm vào. Một Sài Gòn của đường Phạm Ngũ Lão thật rõ nét!

 

Tôi lại muốn nói đến sự cô đơn của ông mà tôi đọc được. Chính sự cô đơn đã cho ông thu mình lại ở một góc và quan sát với đôi mắt mở to, thu hình những diễn biến quanh ông, không phải chỉ thu hình những sự kiện bên ngoài của một con người mà cả bên trong, một bên trong mâu thuẫn, xâu xé của người đối diện để khi ông mô tả nhân vật, ông có thể ghi ra độc đaó, rõ nét và sắc bén, độ sâu của sự nhạy cảm. Ông đã đi sâu vào từng ngõ ngách nội tâm của nhân vật ông tạo ra. Ông có lối viết từng câu rất ngắn gọn và ông sử dụng chữ nghĩa rất chính xác, có đôi khi khô, nhám và rướm máu như một đường gươm nhưng có khi lại lãng mạng nồng nàn đến vô cùng! Ông có những câu kết luân rất ngắn gọn và mang một thông điệp đến bất ngờ, đẹp và hay đã làm tôi sửng sốt. Chẳng hạn như “Thời chiến tranh, tình yêu là xa xỉ phẩm” trong bài “Dưới tàng vây trứng cá” hay “Nhưng, thư từ làm cái gì, chữ nghĩa là điều vô ích, nếu một khi chúng ta đã không còn muốn đọc nhau nữa. Phải không?” trong “Bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu” và khi ông dùng câu này lập lại một lần nữa để kết thúc lá thư ông viết cho Vi trong bài “Giáng sinh”. Và một điều nữa là tôi đã bắt gặp rất nhiều lần “Phải thế không?” ở thể câu hỏi để rồi luôn trở thành thể khẳng định. Ông đã có nhiều đoạn đối thoại bằng những câu hỏi. Người hỏi cũng hỏi và người trả lời cũng hỏi như một thách thức, như một từ chối trả lời! Tôi chỉ đưa ra một ví dụ như trong bài viết “Một hạt bụi của Vũ Khắc Khoan trong Sài Gòn đỏ” có đoạn khi người công an hỏi: “Tại sao anh không đến chỗ tôi làm việc?” “Chỗ nào?” tôi biết tại sao tôi trả lời như vậy. “Bộ anh không giữ cái điạ chỉ của tôi sao?” “Điạ chỉ nào?” Tôi tiếp tục hỏi lại, mắt nhìn thẳng vào mắt y. Còn trong tác phẩm “Bụi và Rác”, ông đã lột trần những tính cách của nhân vật thật sắc sảo, có khi đến độ tàn bạo, dã man và ở đó tình người như không hiện hữu. Nhưng không phải lúc nào cũng thế, tình bạn không phân biệt tuổi tác, tình người không phân biệt địa vị hay giàu nghèo vẫn bao trùm hiện diện trong tác phẩm này. Khi chúng ta ở cùng hoàn cảnh, nhất là hoàn cảnh đau thương hay tuyệt vọng, hay khi tầng số cảm thông của chúng ta giao thoa thì biên giới của tuổi tác không còn nữa. Chúng ta sẽ đọc được nhau!

 

Tôi xin trở về với tạp chí Văn, một chút về cơ mang nào mà tôi đến với tờ tạp chí Văn.

 

Sau 1975, tôi bị cắt đứt không thương tiếc với đời sống văn học miền nam và tôi phải tập tành làm quen với văn học sau 75. Rồi tôi vượt biên, một lần nữa tôi lại cắt đứt với văn học sau 75. Tôi ra đi và đến định cư ở miền bắc nước Mỹ, nơi rất ít người Việt và mùa đông lạnh lẽo vô cùng. Nơi mà mùa đông có khi lạnh đến trừ 50 hay 60 độ F bởi những luồng gió lạnh thổi về từ Bắc cực. Và tôi đã làm quen bằng đọc ké tạp chí Văn của anh tôi, lần đầu, với Văn ở hải ngoại nối dài Văn ở trong nước do Mai Thảo làm chủ nhiệm. Tôi không nhớ rõ năm nào, nhưng rất sớm của thập niên 80. Tôi chỉ có thể làm bạn độc nhất với tạp chí Văn và tôi nghĩ đó là người bạn văn chương đầu tiên của tôi. Tôi miệt mài đọc, miệt mài suy gẫm từng bài viết. Rồi bỗng nhiên, anh tôi không còn muốn sống nữa, anh đã tự kết liễu đời anh và Văn cũng đi theo anh. Tôi loay hoay với những quyển Văn cũ một thời gian và một hôm tôi quyết định bắt nhịp cầu trở lại và tôi đã tiếp tục mua báo định kỳ từ đó đến số báo cuối cùng của năm 2008.

 

Tôi đã không từng đọc thơ của ai ngoài những bài thơ mà tôi phải học ở trường. Tôi đã không từng mê thơ hay đã không từng làm thơ. Tôi đã không từng viết cái gì ngay cả nhật ký vậy mà nhờ những bài thơ xen kẽ trong tạp chí Văn, nhờ những bài viết ở trong tạp chí Văn, tôi đã, một hôm vào năm 2005, tôi đã có thể làm thơ, tôi đã có thể viết….Tôi nghĩ thế không biết là tôi quá chủ quan hay không? Nhưng dù bất cứ lý do gì đi nữa thì tạp chí Văn đã đưa tôi đến với thế giới thơ văn như là một món quà quí giá vô cùng, thì tôi cũng xin nói lời cảm ơn. Cảm ơn và ghi nhận rằng tạp chí Văn đã chọn một con đường để đi dù khó khăn, dù gập ghềnh, dù gian nan, nhưng đó là con đường mà hai bên đường là hoa thơm cỏ lạ. Và tôi đã bắt đầu đời sống thơ văn của tôi từ dạo ấy. Những bài văn, bài thơ của tôi đã làm đời sống tôi phong phú hơn, đã làm hồn tôi ấm áp hơn, và nhất là đã làm cái nhìn của tôi về đời sống mềm hơn, và yêu mến tha nhân hơn.

 

Và cuối cùng, nếu có dịp nào đó, tôi có thể ngồi đối diện với ông và nói lời cảm ơn trực tiếp đến nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng, chắc là lòng tôi đầy ắp những niềm vui. Cảm ơn tạp chí Văn và nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng. Cảm ơn ông đã cho tôi nhiều suy gẫm về những giá trị đạo đức tinh thần, những trăn trở của một chiều dài lịch sử, những khát vọng, những đớn đau của một thời tuổi trẻ, một thời đạn bom. Cảm ơn ông đã đưa triết lý vào đời sống văn chương thật tài tình, để những khô rốc của triết lý nở rộ trong đời sống hằng ngày. Tôi nghĩ là ông đã thành công trong sự nghiệp văn chương của ông không phải bằng số lượng mà bằng chất lượng ông đã cẩn thận chắt chiu. Tôi cũng xin nói thêm là những tác giả, những bài viết mà Văn đã chọn lựa đã xứng đáng đứng trong trời đất, của hôm qua, hôm nay và mãi mãi về sau.

 

Nếu có một ngày nào đó tôi có thể ngồi đối ẩm cùng nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng, ngày đó sẽ là một ngày hạnh phúc trong đời sống văn chương của tôi!

 

Nguyễn Kim Tiến

(22 tháng Sáu, 2012)

(Nguồn : https://sites.google.com/site/gsnguyenxuanhoang/home )

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Ba 202411:17 SA(Xem: 1717)
The fact that Ho Chi Minh proclaimed Vietnamese independence and the formation of the Democratic Republic of Viet Nam [DRVN] on September 2, 1945 did not assure its international recognition. The French—reactionaries and progressive alike— adamantly insisted on the reintegration of Indochina into the French Empire, by force if necessary. Other great powers, for various reasons, independently supported the French reconquest.
07 Tháng Hai 20242:19 SA(Xem: 2769)
Bài này, “Cái Tôi kỳ việt và Âm bản Thành phố/Tình yêu trong thơ tự do Thanh Tâm Tuyền”, được phát triển, bổ sung và mở rộng từ bài viết gốc năm 1986, với tựa “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”, theo tinh thần tựa đề “L’Homme, cet Inconnu” (1935) (Con Người, kẻ Xa Lạ ấy) của Alexis Carrel (Nobel 1912). Một vài chủ đề đã được đưa vào, hay tô đậm, qua một cái nhìn hồi cố và tái thẩm, để làm đầy đặn và làm rõ hơn các đường nét về thơ Thanh Tâm Tuyền, vốn, trong bản gốc nguyên thuỷ, đã được vạch ra nhưng chưa được khai thác kỹ.
07 Tháng Hai 20241:35 SA(Xem: 2681)
Người ta thường chỉ nói về thơ Thanh Tâm Tuyền ở cái thời tuổi trẻ của ông, và gần như không có ai nói kỹ (hoặc tương đối kỹ) về tập “Thơ Ở Đâu Xa”, kết tinh bởi những bài thơ thời sau này của Thanh Tâm Tuyền, đặc biệt là thời ông đã đi qua những hào quang của tuổi trẻ mình, và cũng là thời mà ông đang đi vào, đang đi qua những hiện thực sống động nhất, theo một nghĩa nào đó, của thân phận con người, nói chung, và thân phận thi sĩ, nói riêng, của chính ông. Cũng có ý kiến cho rằng thơ Thanh Tâm Tuyền, trong giai đoạn này, chỉ là thơ thời khổ nạn, tù đầy, không có mấy điều đáng bàn. Ý kiến đó có lẽ nên được xét lại. Con người thi sĩ, đặc biệt những con người thi sĩ với chiều sâu và kích thước như của Thanh Tâm Tuyền, có thể tự thể hiện phong cách độc đáo của mình, tự khám phá hoặc đổi mới mình, trong tứ, trong từ, trong hình ảnh, suy tư mình, trên các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, tiết nhịp, điệu thức, thể loại… trong bất kỳ hoàn cảnh hiện sinh nào của họ.
23 Tháng Mười 20237:38 CH(Xem: 5120)
Even prior to the termination of the war in Europe in the summer of 1945, the United States and the Soviet Union stood out as the leading Great Powers. The United States emerged as the most powerful and richest nation, envied by the rest of the world due to its economic strength, technological and military power. Meanwhile, the Soviet Union surprised all world strategists with its military might. Despite its heavy losses incurred during the German invasion—1,700 towns and 70,000 villages reportedly destroyed, twenty million lives lost, including 600,000 who starved to death in Leningrad alone, and twenty-five million homeless families—after 1942 the Red Army convincingly destroyed German forces and steadily moved toward Berlin.
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 5928)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
05 Tháng Ba 20248:43 CH(Xem: 1601)
Em là sen Hồng thắm / Ngát hồn anh chiêm bao / Đêm dịu dàng xanh thẫm / Sen cười rất ngọt ngào
24 Tháng Hai 20242:39 CH(Xem: 2888)
Mà thơ. chấm. tới phẩy, nào / Dụi mắt. cắm một ngọn sào du dương / Không dưng / nghe một nạm buồn / Hai tay bụm lại / đầu nguồn thiết tha / Suối rất mệt giữa khe già / Tinh anh của đá / ném / xa / đường gần
14 Tháng Hai 20241:28 SA(Xem: 2218)
Tôi đưa tay gõ vào hư ảo / Chân lý mày đang trốn chỗ nào / Hóa ra đen đỏ hai màu áo / Chỉ để làm trò chơi khó nhau
14 Tháng Hai 20241:15 SA(Xem: 1705)
Này anh bạn – anh thấy không / Sự lộng lẫy không nhường chỗ cho điều gì hài hước / Chỉ tiếng nấc thanh xuân mềm yếu / Trên quảng trường nơi vũ hội đàn ông / Vỡ thành cơn địa chấn.
13 Tháng Hai 202411:57 CH(Xem: 1980)
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. Một trùng hợp thật ngẫu nhiên khi tạp chí văn học nghệ thuật Ngôn Ngữ phát hành vào tháng 2-2024 cũng vào dịp Tết Giáp Thìn 2024 ra số đặc biệt giới thiệu Bác sĩ / Nhà văn / Nhà hoạt động môi sinh Ngô Thế Vinh. Năm Rồng, giới thiệu người kết nghĩa với Cửu Long, tưởng không còn gì thích hợp hơn.