- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

CHUYỆN TÌNH ĐÊM GIAO THỪA

26 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 43512)


thieunudiquamuadong-sketch_dtc-content

(Thiếu Nữ Đi Qua Mùa Đông - sketch dtc)


Hai mươi ba giờ, chỉ còn một tiếng nữa là đến thời khắc giao thừa, chị thắp những nén hương, chia đôi cho bố cho mẹ. Chị không khấn mà chỉ nhìn vào khung ảnh còn mới của mẹ. Bố chị hy sinh khi chị lên hai, còn mẹ chị mất đúng ngày ông Công ông Táo lên trời. Trước lúc nhắm mắt, mẹ chị trăng trối một lời duy nhất, bắt chị phải hứa, chị vừa khóc vừa hứa, đôi môi mẹ chị khẽ mỉm cười, bà ra đi thanh thản như đã làm xong nghĩa vụ cuối cùng với con cái.

 

Mẹ mất đi, chị mới cảm thấy nỗi cô đơn thật khủng khiếp. Những cuộc điện thoại của người em trai từ bên Đức gọi về thường xuyên cũng không làm cho chị vơi đi nỗi hưu quạnh. Ba mươi bảy tuổi, nếu như không phải đằng đẵng mười hai năm trời trông nom mẹ liệt nửa người hẳn giờ đây chị đã có một tổ ấm riêng hạnh phúc, bởi chị tuy không đẹp nhưng có duyên và đặc biệt có một tấm lòng nhân hậu. Chị chưa bao giờ cất tiếng thở dài khi phải hy sinh cả thời thanh xuân cho mẹ, nhưng với đàn ông, chị đã thở dài thất vọng vì những người đàn ông đến với chị, lúc đầu mãnh liệt như con thú đói tình nhưng rồi họ cứ bỏ chị mà đi. Mối tình đầu của chị nảy nở ở thời sinh viên, chị yêu say đắm chàng lớp trưởng học giỏi có giọng nói hùng hồn như một nhà hùng biện nhưng cứ hễ đi chơi với chị là đòi chị phải dâng hiến để chứng minh tình yêu. Sau ba lần bị từ chối, chàng tuyên bố chấm dứt tình yêu với chị. Chị hụt hẫng, đau khổ và tự tìm đến người yêu để chứng minh tình yêu mãnh liệt, chân thật nhưng cũng ngây thơ của mình. Chị ra trường cũng là lúc họa vô đơn chí đến với chị, mẹ chị sau một lần trúng gió đã bị liệt nửa người, còn tình yêu cũng rũ cánh bay xa. Nếu không vì mẹ, chị đã tìm đến cái chết. Từ đấy chị sống trong sự câm lặng, gần như chạy trốn cuộc đời. Bước vào tuổi ba ba, mẹ chị giục giã chị lấy chồng nếu không bà sẽ tự giải thoát cho chị bằng cách đập đầu vào tường. Chị kinh sợ, nhanh chóng chấp nhận yêu một người nhà quê mới ra Hà Nội lập nghiệp đang cần một mái nhà để trú ngụ. Nhưng đến lúc gần cưới thì gã cũng bỏ của chạy lấy người với cái lý do hết sức đê tiện; gã bảo chính chị bị mất trinh nên mẹ chị mới bị trời đày, sự thật gã tưởng sau mấy đợt nguy kịch, mẹ chị sẽ ra đi nhưng thấy bà ngày một khỏe ra thì gã sợ phải cưu mang mẹ chị suốt đời. Chị kể lại với mẹ tất cả, bà thở dài và từ đó không nói gì đến chuyện chồng con của chị nữa cho mãi tận đến lúc bà chuẩn bị đi sang thế giới bên kia.

Hai mươi ba giờ ba mươi, chị khoác thêm một chiếc áo rét, dắt chiếc xe máy Wave màu đen đi ra. Trời lặng gió nhưng rét, cái rét buôn buốt tìm mọi cách len lỏi vào người, thỉnh thoảng chị lại rùng mình một cái.

Đã mười bốn năm kể từ khi chị và mấy người bạn rủ nhau đạp xe lên bờ hồ Hoàn Kiếm đón giao thừa, giờ chị mới có dịp trở lại. Chị ngỡ ngàng trước dòng người, dòng xe nườm nượp đổ về bờ hồ. Ngay cả cái vé gửi xe mười năm ngàn đồng cũng làm chị sửng sốt. Vốn nhạy cảm, chị nhận ra một điều, mọi người đi chơi giao thừa đều có đôi, có bạn, chị thì cô đơn một mình. Chợt chị quan sát thấy có đứa bé gái xinh xắn trên vai người bố đang mỉm cười với chị, chị vội vã nở một nụ cười đáp lại. Quên cả mục đích đi chơi giao thừa để thực hiện lời trăng trối của mẹ, chị đi theo đứa bé. Đã mấy lần chị định hỏi bố mẹ đứa bé cho chị bế nó một lúc nhưng đã gần đến giao thừa, chị sợ họ kiêng vì dẫu sao mẹ chị cũng mới mất, tấm băng tang màu đen cài ở tay áo sẽ là một minh chứng.

- Ái ! Đau quá ! - Tiếng thét ở dưới chân làm chị giật mình. Quá mải mê nhìn đứa trẻ trên vai người bố, chị đã giẫm vào chân một đứa bé ăn mày dưới đất. Chị vội ngồi thụp xuống:

- Cô xin lỗi. Có đau không cháu ?

Đứa bé trai gầy gò, phong phanh trong chiếc áo thun thủng lỗ chỗ, nhăn nhó nhìn chị. Chị lướt nhìn nó rồi đôi mắt chị hướng toàn bộ vào đứa bé gái bên cạnh đang ngủ lăn lóc trong tấm chăn cũ nát, nó mới chỉ chừng bảy tám tháng tuổi. Chị lấy ví móc ra một tờ năm mười ngàn đưa cho đứa lớn rồi bế đứa trẻ đang ngủ lên.

- Không, trả em cháu đây ! - Đứa bé trai gào lên như thể chị sẽ cướp mất em nó.

- Này cháu, hay là bế em về nhà cô ăn Tết đi? - Chị nói với đứa lớn. Nó chẳng nói gì, đưa tay giằng lấy đứa em trong tay chị . Đang lúc đôi co thì một người đàn ông tiều tụy như một kẻ nghiện hút đi đến giằng lấy đứa bé trao lại cho đứa lớn.

- Đừng có can thiệp vào chuyện của người khác !

Người đàn ông bực tức nói với chị, chị ngơ ngơ ngác ngác. Mười hai năm trời chị gần như chỉ đến cơ quan, hết giờ lại vội vã trở về với mẹ, chị ít tiếp xúc với đời, chị đâu có hiểu đêm giao thừa không chỉ là cơ hội làm ăn của những người trông xe mà còn của cả những ông bố, bà mẹ, những kẻ bất lương đã đi thuê những đứa trẻ để nhử mồi kiếm ăn .

- Đẹp quá !

- Ồ, ồ ồ tuyệt vời quá!

Giao thừa đã điểm, những chùm pháo hoa bao trùm trên không trung mặt hồ, lòng người nao nức, mê say, chỉ có lòng chị là trĩu nặng nỗi buồn. Những đứa trẻ tội nghiệp, ngay trong cái đêm giao thừa thiêng liêng nhất cũng bị lợi dụng để kiếm tiền, chị thương chúng quá. Chị chẳng còn hứng khởi để xem bắn pháo hoa, chị quay ra bãi gửi xe.

Trên đường về chị mua một cây mía lấy lộc; cây mía dài, loay hoay mãi không chằng được vào sau xe, chị đành bảo người bán chặt ra làm đôi.

Về đến nhà, chị đang lúi húi mở cổng thì giật thót mình bởi tiếng một người đàn ông trung niên có bộ ria mép rậm rịt. Sau giây phút ngỡ ngàng chị hỏi:

- Xin lỗi, anh tìm ai?

Người đàn ông nhìn chị, điềm tĩnh như thể đã quen chị từ lâu:

- Tôi cũng là người lên bờ hồ đón giao thừa, tôi đã chứng kiến cảnh chị bế đứa bé và định đưa nó về nhà ăn Tết. Tiếc thay lúc đó tôi không có đồ nghề. Tôi phóng xe theo chị để biết nhà và...

Người đàn ông bỏ lửng lời. Chả hiểu sao lúc đó chi lại nghĩ anh làm nhà báo. Chị bẽn lẽn mời người đàn ông vào nhà.

- Chị sống có một mình? - Người đàn ông ngạc nhiên hỏi. Chị không trả lời ngay mà khẽ mỉn cười:

- Nhà không có đàn ông, chỉ có một chai rượu vang Thăng Long cúng Tết, anh làm một ly cho ấm bụng.

Mồm nói, tay chị với chai rượu trên bàn thờ. Người đàn ông vội vã chộp lấy chai rượu từ tay chị đặt lại lên bàn thờ:

- Đừng thế, phải để cúng các cụ, có trà uống cũng được.

Chị lấy trà ra pha, người đàn ông có vẻ ít nói nhưng rất hay nhìn chị, nhiều lúc chị phải cúi mặt để tránh ánh mắt của anh. Khi nghe chị nói mẹ chị mới mất hôm hai ba Tết, người đàn ông xin phép thắp cho mẹ chị nén hương. Nhìn thấy ảnh mẹ, chị sực nhớ đến lời trăng trối của mẹ, nó cứ âm vang trong đầu làm chị như tỉnh như mê. Bất chợt chị nắm tay người đàn ông thỉnh cầu:

- Anh có thể giúp tôi một việc để thực hiện lời trăng trối của mẹ tôi?

- Việc gì vậy chị ? - Người đàn ông sốt sắng.

- Trước khi nhắm mắt, mẹ mẹ...- chị ngập ngừng- mẹ tôi bảo tuổi tôi đã cao, lại cũng chẳng còn trong trắng gì nữa, khó mà lấy được chồng nên kiếm lấy đứa con nương tựa tuổi về già.

Người đàn ông há mồm trước lời đề nghi bất ngờ của chị.

- Tôi ... t..ôi..ôi - Người đàn ông thốt mãi không thành lời.

- Anh yên tâm, tôi không cần anh phải nuôi nó, tôi cũng không làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình và con đường công danh của anh đâu.

- Ồ, không, không - Người đàn ông hấp tấp. Rồi cũng giống chư chị, anh không phải là anh nữa mà như thể anh đang nhập hồn vào nhân vật. Anh bật dậy đi ra cửa, trèo lên xe phóng như điên dại.

Chị sụp đổ xuống giường, đôi vai rung lên. Chị khóc, lúc đầu còn thổn thức, sau oà to như thể lúc người ta đưa quan tài của mẹ xuống huyệt. Lâu sau chị ngừng khóc, đi đến bên bàn thờ mẹ, chị lầm rầm khấn:

- Mẹ hãy tha lỗi cho con, con đã không thực hiện được lời hứa với mẹ; có lẽ người ta đã chê con quá già. Nhưng mẹ ơi, ở ngoài đường vẫn còn những đứa trẻ bị bỏ rơi, con sẽ tìm kiếm nhận nuôi một đứa.

Khấn xong chị định đi ta đóng cổng thì sững người khi thấy người đàn ông trở lại. Chị lùi, lùi lại chiếc giường, ngồi bịch xuống một cách vô thức. Người chị run lên, không phải vì rét mà vì bất ngờ vì có điều gì liêng thiêng đang đến với chị. Người đàn ông không nói gì, anh dựng giá vẽ, hai mắt nhìn chị như thôi miên, tay lia lịa đưa bút vẽ. Bây giờ chị mới hiểu anh là họa sĩ chứ không phải là nhà báo. Chị biết anh đang vẽ chị, chị ngồi im lặng, đôi mắt mở to nhìn về phía ảnh mẹ nơi bàn thờ. Một tiếng sau người họa sĩ buông bút vẽ, anh tiến lại phía giường, cầm tay chị dắt lại chỗ giá vẽ, xúc động nói

- Tặng em!

Chị nhìn đăm đắm vào bức ký hoạ; chị đấy nhưng không phải là chị bây giờ mà là chị của thời sinh viên hồn nhiên, trong sáng. Bên dưới bức họa có lời đề tặng, chị cúi thấp xuống nhìn cho rõ. Trái tim chị lặng đi trước dòng chữ : Tặng vợ yêu của anh

 

Vũ Đảm

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Tư 20241:51 SA(Xem: 8013)
Vô cùng thương tiếc khi được tin: Nhà văn, Sử gia NGUYÊN VŨ - VŨ NGỰ CHIÊU Sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942, tại Phụng-Viện-Thượng, Bình-Giang, Hải-Dương, VN. Mệnh chung ngày 19 tháng 4 năm 2024 tại Houston, TX Hoa-Kỳ. Hưởng Thọ 82 tuổi
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 13106)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
10 Tháng Mười 20244:15 SA(Xem: 707)
Tôi trở về Half Moon Bay / Đếm từng con sóng biển / Đếm từng nỗi ưu phiền / Lòng buồn như sương mù / Từ độ ánh trăng tan...
05 Tháng Mười 20244:58 CH(Xem: 1721)
NCT sinh năm 1948 tại Vũng Tàu, cha mẹ là người Hà Nội. Từ đầu những năm 1950er NCT lớn lên ở thành phố Sài Gòn, học tiểu học ở trường Bàn Cờ, trung học ở trường Chu Văn An. Năm 1967 ông từ chối những học bổng của những quốc gia khác, chọn học bổng quốc gia (VNCH) để sang CHLB Đức du học. Tại Viện Đại Học Stuttgart NCT học Triết học và Toán Học & Cơ Học Áp Dụng. Vào thời điểm đó những triết gia Đức có tiếng như Martin Heidegger, Karl Jaspers, hay Ernst Bloch đã hưu trí, ông đã làm luận án tiến sĩ ở Viện Cơ Học & Toán Học Áp Dụng. Ông là sinh viên trẻ nhất xưa nay có bằng Tiến Sĩ Kỹ Sư (Doktor-Ingenieur), vào năm 1977.
02 Tháng Mười 20246:16 CH(Xem: 923)
Chủ nghĩa phê bình văn học thời cổ điển ở phương Đông thường diễn ra trong các hình thức: Bình văn, bình thơ và ca xướng hay ngâm vịnh; trong lúc ở phương Tây thì hình thức khá phổ biến là diễn thuyết và tranh luận. Cái hay của văn chương chỉ trụ vào hình thức diễn đạt một phần; nhưng sự tinh túy lại là cái “thần” nằm trong góc khuất của cảm xúc và tư tưởng. Bởi vậy, khi nói đến những trường hợp xướng văn, bình thơ hay phê bình văn học đã có rất nhiều văn nghệ sĩ Đông Tây như Jacques Prévert, Francoise Sagan, Mark Twain… ở trời Tây hay Tô Đông Pha, Bùi Giáng…
02 Tháng Mười 20245:30 CH(Xem: 1132)
Những bài thơ dưới đây được tuyển dịch từ cuốn ”Một Trăm Bài Thơ Nhật” rất nổi tiếng của thi sĩ-dịch giả Mỹ Kenneth Rexroth với thơ của các thi sĩ Nhật qua nhiều thế kỷ. Trong cuốn này, dịch giả Rexroth đã nắm bắt được rất nhiều tích cách tinh tế của thi ca cổ điển Nhật Bản: chiều sâu của niềm đam mê chừng mực, văn phong sang trọng khắc khổ, và hình tượng phong phú nhưng cô đọng. (- Bạt Xứ)
02 Tháng Mười 20245:12 CH(Xem: 685)
Cách nay hơn chục năm, tôi đã viết: Luân Hoán, người kể chuyện bằng thơ. Tuy nhiên, ngay sau đó tôi đã nhận ra, bài viết chưa thực sự mở ra được hồn cốt, kiến thức và khối lượng sáng tác đồ sộ của ông. Vì vậy, hôm rồi, nhận được tập bản thảo: Nỗi Nhớ Quê Nhà Từ Montreal, do Luân Hoán gửi tặng, dù đang rất bận, tôi cũng dành thời gian đọc ngay. Một cảm xúc khác, Luân Hoán đã để lại trong tôi, khi đọc xong tập thơ dày đến 300 trang này. Thật vậy, Nỗi Nhớ Quê Nhà Từ Montreal như một cuốn hồi ký về tình yêu, cuộc sống chìm vào nỗi nhớ quê nhà được Luân Hoán viết bằng thơ: “càng già càng bớt nhớ nhà?/ quẩn quanh nhớ mỗi cái ta thật nhiều/ nhớ từ thời bé hạt tiêu/ phơi nắng giang gió thả diều, đi rông“ (Trí nhớ về chiều)
02 Tháng Mười 20245:02 CH(Xem: 988)
Chồng tôi bị bạo bệnh qua đời được vài năm thì tôi quyết định bán căn nhà cũ và văn phòng địa ốc của anh ấy để dời đi nơi khác, cố quên đi môt dĩ vãng đau thương. Tôi đã quá mệt mỏi với công việc làm ăn mà xưa kia anh ấy luôn gánh vác những phần nặng nhọc nhất. Chồng tôi là một người hiền hòa, hoạt bát rất lo cho vợ con, cho nên sự ra đi của anh ấy đã mang theo không những một chỗ dựa vững chắc cho mẹ con tôi mà cả linh hồn và thể xác của tôi.
02 Tháng Mười 20244:46 CH(Xem: 1137)
Đối với người xa quê, cứ đồng hương là thân nhau rồi, hà huống lại là nhà văn. Thường các nhà văn rất thích gặp nhau, có thể bàn với nhau những dự định sáng tác, động viên nhau khám phá thi pháp mới. Thân hơn nữa, đọc bản thảo của nhau, góp ý để sửa chữa tác phẩm tốt hơn, hay hơn... Tôi viết rất chậm, ba bốn tháng mới viết được một truyện ngắn. Còn Nguyễn Anh thì ngược lại, chỉ vài tháng đã có tiểu thuyết gáy dày như hòn gạch. Bao giờ viết xong anh cũng in ra, đóng thành tập, có bìa giả như một luận văn tiến sĩ, đưa tôi đọc, nhờ góp ý. Tiểu thuyết của anh là loại tình cảm xã hội nên hấp dẫn, tôi đọc một hai bữa là xong mà không thấy quá vất vả. Mới có mấy năm anh đã có hơn năm mươi đầu sách. Tác phẩm ra ào ạt nhưng anh vẫn chưa nổi tiếng trên văn đàn. Trong giới viết lách chẳng mấy người biết đến Nguyễn Anh.
02 Tháng Mười 20244:38 CH(Xem: 1343)
Như tuổi trẻ của chúng ta, hôm nay / Thứ hoàng hôn oằn mình rực rỡ / Đang chìm dần / Khuất vào nơi biển lạnh. / Bình minh rồi sẽ mọc / Nhưng không thuộc về chúng ta.