- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Đôi Lời Minh Xác: Trước Hiện Tượng Mọi Rợ Văn Hóa [ Cultural Barbarism]

29 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 80052)

Mọi Rợ văn hóa [cultural barbarism]. Thoạt nghe có vẻ lạ tai, nhưng suy nghĩ kỹ, mới thấy thấm thía. Đọc cổ thư Trung Hoa, thường thấy những người tự xưng là “người Hoa hạ” rất tự hào về tập tục đội mũ, mặc áo, dinh thự nguy nga, ăn uống tiếp khách ngồi bàn, ngồi ghế, có chữ viết, sách vở. Chung quanh Hoa hạ toàn là bọn man, di, nhung, địch, hướng về triều đình Hán tộc để nghênh đón ân đức. Khổng Khâu–một thời được xưng tụng như vạn thế sư biểu–cũng từng thận trọng phân loại man di tứ phương, và “phán” rằng bọn mọi rợ ở phương Nam lúc nằm ngủ, chân đầu lộn ngược. Dù trên thực tế, Khổng Khâu chẳng hiểu biết gì về phong tục, tập quán, hay thứ ngôn ngữ “líu lo như chim” của các dân tộc phương Nam. Và, dĩ nhiên, cũng chưa từng đặt chân đến những xứ mà có thời gian, bốn năm thế kỷ sau ngày Khổng Khâu chết, vua quan Hán vẫn tin rằng người ta làm nhà cửa hướng về phương Bắc để đón ánh mặt trời! Sách Lễ Ký huyễn truyền về tám tộc Nam Man khắc chữ tên trán, cẳng chân giao nhau. Văn gia Hán sau này còn có thói quen thêm những bộ trùng, bộ khuyển trong việc đặt tên nước, tên dân lân bang.
Những dân tộc bị Khổng Khâu hay trí thức Hán đặt tên là “Nam Man” hay “Tây Nam Man Di” hẳn chẳng vui vẻ gì, nếu không phải phẫn nộ trước thái độ có thể gọi là “mọi rợ văn hóa” kiểu Hán tộc này. Nhưng thực ra, sự mọi rợ văn hóa không chỉ dành độc quyền cho Khổng Khâu cùng Hán tộc. Chính những người phương Nam của Trung Hoa đôi lúc cũng có những hành động mọi rợ văn hóa không kém. Sự mọi rợ này bộc lộ rõ ràng nhất qua hành vi “đào mộ” (chửi rủa) hay “cung văn” (nịnh hót trong những cơn lên đồng) nhan nhản trong lịch sử mà ta có thể tạm gọi là những loài sâu bọ của bông hoa lịch sử.
Một số sử quan Việt, chẳng hạn, từng mượn những quốc sử để ca ngợi người có quyền uy, tiền bạc hầu kiếm chút đỉnh chung, hay miệt thị, nguyền rủa những người thua cuộc là “ngụy” hay “yêu đảng.” Nhưng đáng ghê tởm hơn nữa là hiện tượng “ziết sử” một thời thịnh hành ở hải ngoại cũng như quốc nội trong thế kỷ XX và XXI.
Có nhiều loại người “ziết sử,” với trình độ học vấn, xuất thân khác nhau. Nổi danh nhất là Đặng Thái Mai, Tôn Thất Thiện, Lữ Giang, Trần Chung Ngọc, Lê Trọng Văn, v.. v . . Trường phái này thường sử dụng thủ thuật cả vú lấp miệng em, tảng lờ mọi sự thực lịch sử, ngụy tạo tư liệu, hoặc trộm cắp công trình tim óc của các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp–rồi xào nấu, nhắm mắt lại mà cung văn hoặc đào mộ trên báo chí hay những cuốn “sách” của họ. Đặng Thái Mai, chẳng hạn, từng bịa đặt ra việc Phó Bảng Nguyễn Sinh [Sanh] Huy yêu nước, không chịu làm quan cho Pháp–trong khi thực tế Phó Bảng Huy làm việc đắc lực cho “Tây” đến độ Nguyễn Sinh Côn được đặc cách nhận vào trường Quốc Học Huế năm 1908, và ít lâu sau bản thân Huy được cử làm tri huyện Bình Khê–một huyện dữ dằn nhất tỉnh Bình Định trong cuộc nổi dạy năm 1908 của nông dân, cần được “vỗ yên” sau “loạn cúp tóc” hay “loạn đồng bào.” Sau đó, Huy bị cách chức, tống giam từ ngày 19/5/1910, rồi phiêu lưu vô định ở miền Nam, khiến Nguyễn Sinh Côn phải bỏ học, rồi trốn xuống tàu ra hải ngoại, làm đủ thứ nghề. Xin nhập học đường tắt trường Ecole Coloniale, nhưng bị từ chối, “Paul Thành”–một bí danh mới của Nguyễn Sinh Côn–từng viết thư cho viên chức thuộc địa Pháp nhờ chuyển tiền giúp đỡ Phó bảng Huy, và xin cho cha được phục hồi chức tước, nhưng Khâm sứ Pháp không tìm ra tông tích Phó Bảng Huy. Nguyễn Sinh Côn còn yêu cầu anh trai là Nguyễn Sinh Khiêm viết thư “van nài” Sarraut “đại nhân” can thiệp cho Côn (Tất Thành) được nhập học trường Thuộc Địa Paris, vì trường này đòi hỏi học viên phải được chính phủ Liên Bang Đông Dương gửi đi. Tóm lại, hai lá đơn xin nhập học trường Thuộc Địa ngày 15/9/1911 không phải là nỗ lực cuối cùng xin phục vụ Pháp của Nguyễn Sinh Côn (Tất Thành). Không hề có việc cha Nguyễn Sinh Côn không chịu làm quan cho Pháp; và, HCM đã lên đường ra hải ngoại chưa hẳn đã vì muốn tìm đường cứu nước như những nhà cung văn của chế độ khua chiêng, gõ trống bên cạnh những lời xưng tụng muôn năm vang dội các hội trường.
Trần Chung Ngọc–cựu giảng nghiệm viên phòng thực tập Vật Lý tại Đại học Wisconsin-Madison–nhắm mắt chửi rủa công giáo, tin lành, ca ngợi hay bênh vực chế độ cộng sản–dù chẳng biết gì nhiều về hai tôn giáo lớn Tây phương, hay phong trào Cộng Sản. Cóp nhặt từ tác giả này vài câu, tác giả khác ít câu in vào “sách” mình, làm như học nhiều, hiểu rộng–nhưng chưa hẳn đọc mà đã hiểu các tác giả hay những điều trích dẫn đó. Chẳng thấy Trần Chung Ngọc công bố một tài liệu nào do mình phát hiện–nên lập luận chỉ là một thứ nhai lại của người khác, kèn kẹt tiếng nghiến răng khoái trá, man rợ. Khi được đọc lần đầu tiên trong đời về kế hoạch “chỉnh quân,” “chỉnh huấn” theo kiểu Mao-ít qua sự dạy bảo của các cố vấn Trung Cộng dưới quyền Luo Guibo [La Quí Ba] và Wei Guoqing [Vi Quốc Thanh] trong thập niên 1950, kiến thức “kinh điển” của Trần Chung Ngọc chỉ cho phép nhà ziết sử giẫy nẩy lên rằng đó là vu cáo bộ đội Cụ Hồ, vì bộ đội cụ Hồ vô cùng oai hùng, tại sao bỗng dưng lại bắt phải chỉnh quân, chỉnh huấn. Lối “ziết sử” trên của Trần Chung Ngọc khiến những cán bộ tuyên giáo CSVN có lẽ cũng phải đỏ mặt vì sự cung văn lố bịch, dựa trên sự ngu dốt hào nhoáng và điêu ngoa sặc sỡ. Đó là chưa kể những người như Khuất Duy Tiến hay Đặng Vũ Hiệp, cựu Tư lệnh B-3, cùng hàng chục ngàn nạn nhân khác của kế hoạch Mao hóa quân đội CSVN, dưới sự chỉ đạo của cán bộ Trung Cộng. Khi có người chỉ cho Trần Chung Ngọc biết chỉnh huấn, chỉnh quân ở đây có nghĩa học tập tư tưởng quân sự Mao Nhuận Chi “vĩ đại,” Trần Chung Ngọc mới ngẩn người ra, xin lỗi, tự biện hộ mình không chuyên biệt về sử. Nhưng chỉ nhận lỗi cho có, trên mặt các báo và mạng điện tử hải ngoại, Trần Chung Ngọc lúc nào cũng hùng hồn ziết sử (Trần Chung Ngọc rất sính dụng từ ngữ này).
Một “nhà ziết sử” lừng lẫy khác, thường bút chiến với Trần Chung Ngọc, là Lữ Giang. Lữ Giang tìm đủ cách đào mộ các lãnh tụ Phật Giáo, cung văn họ Ngô, thấy ai đưa ra những tư liệu bất lợi cho họ Ngô là chửi rủa bằng những ngôn ngữ hạ cấp. Nhưng kiến thức thực sự của Lữ Giang ra sao? Trong cuốn Những Bí Ẩn Lịch Sử, nhà ziết sử Lữ Giang phán rằng: Thân phụ cụ Phan Bội Châu đã phải sửa tên “San” của cụ thành Châu, vì sợ “phạm húy” vua Duy Tân (Vĩnh San) vài ba năm trước ngày vua Duy Tân chào đời! Khi ăn cắp tư liệu của tôi về lá thư riêng của Khâm sứ Pháp gửi cho Toàn quyền Đông Dương, Lữ Giang mọc ra rằng đó là một “văn thư,” lại còn trích dẫn số ký hiệu văn khố cẩn thận. Đó là chưa nói đến những tư liệu chưa giải mật mang danh hiệu SPCE tại Aix-en Provence mà chỉ những người nghiên cứu chuyên nghiệp mới được tham khảo nếu được phép của Bộ Văn Hóa Pháp. Thái độ thiếu lương thiện trí thức của Lữ Giang còn bộc lộ qua việc trộm cắp tư liệu của nhiều tác giả khác, nhưng quên trưng dẫn, và còn ghi chú nguồn tài liệu rõ ràng mà những tác giả nạn nhân tham khảo, ra vẻ ta đây cũng từng “nghiên cứu.” Khi bị vạch mặt nạ, Lữ Giang đưa ra một thứ lý luận cuối cùng của trò mọi rợ văn hóa: vu cáo tôi xuyên tạc lịch sử vì đưa ra những sử liệu văn khố mà không ai có thể phủ nhận hay phản bác sự khả tín. Tiếp đó là cái mũ “chống Ki-tô giáo.” Tôi vẫn nghĩ Lữ Giang, hay những người–như một người từng quen biết ở San Jose, chẳng có chút vốn liếng sử học nào, vu cáo tôi là “bài Ki-tô” hay chống Ngô Đình Diệm, trên loại lưới nhện Talawas (mà tôi từng nói rõ vô cùng khinh bỉ)–chẳng thuyết phục được ai, ngoại trừ những người muốn được thuyết phục. Y hệt lập luận tôi “chống Cộng khét tiếng” hay muốn làm giảm gia trị Hồ khi công bố tư liệu văn khố mới về HCM. Nhưng tôi vẫn nghĩ Lữ Giang chỉ là một trường hợp cá biệt, không thể đại diện cho tập thể trí thức Ki-tô.
Còn Lê Trọng Văn–từng kiêu hãnh tự nhận là nhặng báo cho Ngô Đình Nhu để tăng giá trị “bí ẩn lịch sử” về họ Ngô–HAI LẦN ăn cắp tư liệu của tôi in vào “sách” [thư Ngô Đình Thục gửi Toàn Quyền Decoux năm 1944, và thư Petrus Key gửi Trung tá Jauréguiberry vào tháng 3/1859]. Lê Trọng Văn còn cho rằng tôi không biết lịch sử Việt Nam khi gọi sông Cửu Long (hạ nguồn Lan Thương Giang trong lãnh thổ Lào) là sông Khung, hay Liên Bang Thái Tự Trị (ZANO) gồm mười sáu (16) châu mà không phải mười hai (12) châu như huyền thoại Thái–hai ý niệm và thực thể chính trị hoàn toàn khác biệt nhau mà những nhặng báo như Lê Trọng Văn khó đủ học vấn để tường tận. Giống như Trần Chung Ngọc và Lữ Giang, chẳng phải tôi sai, mà các đương sự chưa từng được nghe hay biết đến những chi tiết lịch sử tầm thường trên.
Thực ra, với tôi, những côn đồ và mọi rợ văn hóa không đủ khiến quan tâm. Sau lần bị kích tim đầu năm 2008, kế cận cõi chết, tôi nhận hiểu không còn nhiều thì giờ, cần tập trung vào việc kết thúc những nghiên cứu của mình. Tôi cũng phá lệ thường, cho phổ biến trên tạp chí Hợp Lưu những nghiên cứu mới nhất, hy vọng xan xẻ kiến thức sử học với học giả và độc giả thân quí bốn phương. Cuối năm 2008, do đề nghị của văn hữu Nguyễn Vĩnh Châu, tôi còn chấp thuận cho ông Trần Quốc Bảo phỏng vấn để “làm film” về HCM, với điều kiện duy nhất là phải tôn trọng sự thực lịch sử. Bạn quí của tôi, như nhà văn Trùng Dương và Ngô Thế Vinh, có thể chứng thực điều trên. Việc nhóm ông Bảo không thực hiện đúng lời hứa–sản xuất cuốn DVD “sự thực về HCM” nhưng còn chứa đựng nhiều chi tiết sai lầm, những lời chứng mà mức khả tín rất đáng hoài nghi–không vượt ra ngoài sự lo ngại của tôi. Bởi thế, tôi đã dành cho Nguyễn Vĩnh Châu một bài phỏng vấn quanh những đề tài về HCM để có dịp phổ biến khi thuận tiện.
Cuốn DVD vừa phát hành, tôi được website Cộng Sản Việt Nam xếp hạng là chống Cộng khét tiếng, và hàm ý không đưa ra điều gì mới. Thực ra, cần minh xác, tôi chống bất cứ hình thức độc tài nào, bất kể màu sắc ý thức hệ. Đây không phải lần đầu tiên tôi nói đến sự vi phạm Hiến Chương LHQ và Tuyên Ngôn Nhân Quyền 1948. Trong “Seminar Paper” năm 1999 đòi hỏi của trường Luật Houston trước ngày tốt nghiệp–với tựa “The Human Rights Aspect of the United States-Vietnam Relations, 1975-1995”–đã phản ảnh hết tâm ý của tôi nói chung, và nhận định về Việt Nam, nói riêng. Điều khó ngỡ là mới đây, chuyên viên ziết sử Trần Chung Ngọc bỗng nhập cuộc, chẳng hiểu do tự nguyện hay nhận lệnh từ đâu, hung hăng đả kích DVD “Sự Thực về HCM.” Giở trò giả mù sa mưa, Trần Chung Ngọc trích tác giả này, tác giả nọ để bảo vệ luận cứ mình. Trong số những người được dẫn chứng có Duiker và Quinn-Judge, hai tác giả cũng xuất hiện trong DVD của nhóm Linh mục Lễ. Nhưng chẳng thấy Trần Chung Ngọc đưa ra được bằng chứng có giá trị nào để phản bác, ngoài những lời “tinh tinh” vu vơ. Mặc dù được chính phủ VNCH gửi qua Mỹ du học nhờ học bổng Mỹ và thành tích cựu sĩ quan, kiếm được mảnh bằng về Vật Lý, nhưng Trần Chung Ngọc không nắm được nguyên tắc cơ bản của đối thoại và lý luận. Đó là muốn bài bác một nhận định sử học của những người nghiên cứu chuyên nghiệp, phải xuất trình được những tư liệu khác với những dữ kiện do người Trần Chung Ngọc muốn phê phán đưa ra. Đáng lẽ Trần Chung Ngọc phải biết theo thí dụ cụ thể sau: Để chứng minh Quinn-Judge không phải là một học giả nghiêm túc hay có giá trị về HCM, mà Trần Chung Ngọc ca ngợi hết lời, đánh giá mỗi nhận xét như chừng mang sức nặng thánh kinh, một sinh viên năm thứ nhất Sử học thôi cũng đủ cho Trần Chung Ngọc thấy hai trong hàng chục nhược điểm của Quinn-Judge trong tập tiểu thuyết lịch sử về HCM: Thứ nhất, trong bài “Thỉnh nguyện của dân An-na-mít” trên báo L’Humanité ngày 18/6/1919, không hề có tên Nguyễn Ái Quốc như Quinn-Judge hoang tưởng. (Xem Chính Đạo, HCM con người và huyền thoại, tập I, 1997). Thứ hai, mặc dù mật thám Pháp báo cáo rõ ràng người phụ nữ vượt biên qua Vân Nam năm 1939 không phải là “Fan Lan” Nguyễn Thị Vịnh, nhưng Quinn-Judge vẫn cho rằng Minh Khai có thể đã âm thầm đi tìm Linov Côn. Quinn-Judge cũng chẳng biết gì nhiều về Nguyễn Sinh Côn hay bối cảnh xã hội VN trong hai thập niên đầu của thế kỷ XX–liệu có xứng đáng chăng để diễn dịch về tâm trạng HCM? (Tôi vẫn nghĩ Trần Chung Ngọc chưa đọc kỹ Quinn-Judge, hoặc đọc mà không hiểu, không phát hiện nổi sai lầm và dụng tâm của người cựu nữ ký giả này)
Cách nào đi nữa, trung thành với tinh thần mọi rợ văn hóa, Trần Chung Ngọc nhảy ngay đến kết luận là tôi “cường điệu” khi đưa ra nhận xét rằng HCM là người chỉ có tham tâm giành đoạt quyền lực và duy trì độc quyền cai trị. Hy vọng quí thân hữu và độc giả đọc những điều tôi phát biểu về HCM, do Nguyễn Vĩnh Châu ghi lại, và cho tôi biết ý kiến.
Một cách tổng quát, tất cả những kẻ “Ziết sử” đều san sẻ một đặc tính chung. Đó là chẳng biết gì về sử, chỉ dùng trí tưởng tượng của mình để uốn cong những mảnh vụn sử liệu lịch sử theo mục đích “cung văn,” hay “đào mộ” giai đoạn. Lập luận của Trần Chung Ngọc hay Lữ Giang khiến người ta không thể không nhớ đến một câu bất hủ của Socrate: “Điều tội lỗi nhất là cứ tưởng mình biết điều mình thực sự chẳng biết gì cả.” Nhưng những kẻ ziết sử hình như bất chấp dư luận, miễn hồ đạt được mục tiêu của mình. Như cầu xin một bữa ăn nhậu, hay một chút đỉnh chung, ân sủng cuối đời của nhà cầm quyền; và, không đủ kiến thức hoặc sự tỉnh táo để nhìn lại những cái gương tầy liếp đầy phẫn hận, cùng máu và nước mắt của thành viên hai tổ chức Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, hay Liên Minh Dân Chủ, Hòa Bình năm 1968–hai dụng cụ thôn tính miền Nam của Lê Duẩn-Lê Đức Thọ–nhưng đã bị vứt ra hải ngoại hay chìm vào bóng tối các đô thị sau khi người CS đã đạt mục tiêu.
Đáng lẽ tôi giữ thái độ im lặng, tập trung vào việc hoàn tất các nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, Trần Chung Ngọc đã mượn trang website Sách Hiếm có liên hệ với ông bà Nguyễn Mạnh Quang để phô trương đặc tính hung hãn mọi rợ văn hóa khi đả kích cuốn DVD “Sự Thực về HCM,” đào mộ và cung văn theo cảm tính hoặc lệnh trên, bất chấp sự thực, lương tâm và công tâm của con người thôi, nói chi người từng tốt nghiệp một đại học Mỹ. Chẳng hiểu Trần Chung Ngọc đã được hưởng những phần thưởng gì để đả phá những người chống Cộng miền Nam không chút kiêng dè. Nhưng những người thuê mướn Trần Chung Ngọc quên một điều: Bầy ziết sử và tinh tinh tân thời không thể tô son, thiếp vàng lại cho HCM hay chế độ được nữa. Hành động viết thư cho Chu Ân Lai nhìn nhận biên giới biển có những dấu chấm và gạch đứt quãng là bằng chứng hùng hồn nhất về tham vọng giành đoạt quyền lực với mọi giá của HCM cùng Đảng CSVN. Cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ là những tấm gương soi gáy HCM và Đảng CSVN đến ngàn đời. Lúc ấy thi hài những HCM, Phạm Văn Đồng, Nông Đức Mạnh có thể đã tan thành tro bụi, nhưng sẽ bị các cháu học sinh từ lớp đồng ấu trở lên hài tội cắt đất cho Hán tộc để cầu quyền lực, danh vọng. Chắc là dòng giõi, con cháu “lãnh tụ” chẳng hãnh diện gì và sẽ gánh chịu đủ búa rìu dư luận.
Phần những người như Lữ Giang hay Trần Chung Ngọc, Đặng Thai Mai? Chỉ có sự im lặng, và một cái nhún vai rẻ rúng, cho những kẻ vì chút lợi nhuận nhất thời mà tẩy xóa cho sạch lương tâm và niềm kiêu hãnh của một con người. Họ sẽ chìm vào lãng quên, chẳng còn dấu tích nào về một thời gian hiện hữu như những ngụy trí thức và mọi rợ văn hóa.

Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu

Houston, 29/8/2009

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Tư 20241:51 SA(Xem: 8013)
Vô cùng thương tiếc khi được tin: Nhà văn, Sử gia NGUYÊN VŨ - VŨ NGỰ CHIÊU Sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942, tại Phụng-Viện-Thượng, Bình-Giang, Hải-Dương, VN. Mệnh chung ngày 19 tháng 4 năm 2024 tại Houston, TX Hoa-Kỳ. Hưởng Thọ 82 tuổi
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 13106)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
10 Tháng Mười 20244:15 SA(Xem: 712)
Tôi trở về Half Moon Bay / Đếm từng con sóng biển / Đếm từng nỗi ưu phiền / Lòng buồn như sương mù / Từ độ ánh trăng tan...
05 Tháng Mười 20244:58 CH(Xem: 1731)
NCT sinh năm 1948 tại Vũng Tàu, cha mẹ là người Hà Nội. Từ đầu những năm 1950er NCT lớn lên ở thành phố Sài Gòn, học tiểu học ở trường Bàn Cờ, trung học ở trường Chu Văn An. Năm 1967 ông từ chối những học bổng của những quốc gia khác, chọn học bổng quốc gia (VNCH) để sang CHLB Đức du học. Tại Viện Đại Học Stuttgart NCT học Triết học và Toán Học & Cơ Học Áp Dụng. Vào thời điểm đó những triết gia Đức có tiếng như Martin Heidegger, Karl Jaspers, hay Ernst Bloch đã hưu trí, ông đã làm luận án tiến sĩ ở Viện Cơ Học & Toán Học Áp Dụng. Ông là sinh viên trẻ nhất xưa nay có bằng Tiến Sĩ Kỹ Sư (Doktor-Ingenieur), vào năm 1977.
02 Tháng Mười 20246:16 CH(Xem: 923)
Chủ nghĩa phê bình văn học thời cổ điển ở phương Đông thường diễn ra trong các hình thức: Bình văn, bình thơ và ca xướng hay ngâm vịnh; trong lúc ở phương Tây thì hình thức khá phổ biến là diễn thuyết và tranh luận. Cái hay của văn chương chỉ trụ vào hình thức diễn đạt một phần; nhưng sự tinh túy lại là cái “thần” nằm trong góc khuất của cảm xúc và tư tưởng. Bởi vậy, khi nói đến những trường hợp xướng văn, bình thơ hay phê bình văn học đã có rất nhiều văn nghệ sĩ Đông Tây như Jacques Prévert, Francoise Sagan, Mark Twain… ở trời Tây hay Tô Đông Pha, Bùi Giáng…
02 Tháng Mười 20245:30 CH(Xem: 1133)
Những bài thơ dưới đây được tuyển dịch từ cuốn ”Một Trăm Bài Thơ Nhật” rất nổi tiếng của thi sĩ-dịch giả Mỹ Kenneth Rexroth với thơ của các thi sĩ Nhật qua nhiều thế kỷ. Trong cuốn này, dịch giả Rexroth đã nắm bắt được rất nhiều tích cách tinh tế của thi ca cổ điển Nhật Bản: chiều sâu của niềm đam mê chừng mực, văn phong sang trọng khắc khổ, và hình tượng phong phú nhưng cô đọng. (- Bạt Xứ)
02 Tháng Mười 20245:12 CH(Xem: 685)
Cách nay hơn chục năm, tôi đã viết: Luân Hoán, người kể chuyện bằng thơ. Tuy nhiên, ngay sau đó tôi đã nhận ra, bài viết chưa thực sự mở ra được hồn cốt, kiến thức và khối lượng sáng tác đồ sộ của ông. Vì vậy, hôm rồi, nhận được tập bản thảo: Nỗi Nhớ Quê Nhà Từ Montreal, do Luân Hoán gửi tặng, dù đang rất bận, tôi cũng dành thời gian đọc ngay. Một cảm xúc khác, Luân Hoán đã để lại trong tôi, khi đọc xong tập thơ dày đến 300 trang này. Thật vậy, Nỗi Nhớ Quê Nhà Từ Montreal như một cuốn hồi ký về tình yêu, cuộc sống chìm vào nỗi nhớ quê nhà được Luân Hoán viết bằng thơ: “càng già càng bớt nhớ nhà?/ quẩn quanh nhớ mỗi cái ta thật nhiều/ nhớ từ thời bé hạt tiêu/ phơi nắng giang gió thả diều, đi rông“ (Trí nhớ về chiều)
02 Tháng Mười 20245:02 CH(Xem: 988)
Chồng tôi bị bạo bệnh qua đời được vài năm thì tôi quyết định bán căn nhà cũ và văn phòng địa ốc của anh ấy để dời đi nơi khác, cố quên đi môt dĩ vãng đau thương. Tôi đã quá mệt mỏi với công việc làm ăn mà xưa kia anh ấy luôn gánh vác những phần nặng nhọc nhất. Chồng tôi là một người hiền hòa, hoạt bát rất lo cho vợ con, cho nên sự ra đi của anh ấy đã mang theo không những một chỗ dựa vững chắc cho mẹ con tôi mà cả linh hồn và thể xác của tôi.
02 Tháng Mười 20244:46 CH(Xem: 1138)
Đối với người xa quê, cứ đồng hương là thân nhau rồi, hà huống lại là nhà văn. Thường các nhà văn rất thích gặp nhau, có thể bàn với nhau những dự định sáng tác, động viên nhau khám phá thi pháp mới. Thân hơn nữa, đọc bản thảo của nhau, góp ý để sửa chữa tác phẩm tốt hơn, hay hơn... Tôi viết rất chậm, ba bốn tháng mới viết được một truyện ngắn. Còn Nguyễn Anh thì ngược lại, chỉ vài tháng đã có tiểu thuyết gáy dày như hòn gạch. Bao giờ viết xong anh cũng in ra, đóng thành tập, có bìa giả như một luận văn tiến sĩ, đưa tôi đọc, nhờ góp ý. Tiểu thuyết của anh là loại tình cảm xã hội nên hấp dẫn, tôi đọc một hai bữa là xong mà không thấy quá vất vả. Mới có mấy năm anh đã có hơn năm mươi đầu sách. Tác phẩm ra ào ạt nhưng anh vẫn chưa nổi tiếng trên văn đàn. Trong giới viết lách chẳng mấy người biết đến Nguyễn Anh.
02 Tháng Mười 20244:38 CH(Xem: 1346)
Như tuổi trẻ của chúng ta, hôm nay / Thứ hoàng hôn oằn mình rực rỡ / Đang chìm dần / Khuất vào nơi biển lạnh. / Bình minh rồi sẽ mọc / Nhưng không thuộc về chúng ta.