- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Thư Cho Em

19 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 12161)

hopluu99-266w_0_300x183_1

CHUYỆN MỘT KHỐI TÌNH BẤT DIỆT

Chưa từng có một bức thư tình nào mà bán chạy ở Pháp trong mùa thu hoạch văn học rentrée littéraire 2007 này bằng tác phẩm Thư cho em mới vừa được tái bản.

Ngang tầm mắt trên tấm cửa liếp, một tờ giấy ghi hàng chữ đậm : « Xin báo công an phường. Cảm ơn. » Họ nằm bên nhau, vẻ mặt thanh thản. Họ là nhà văn, nhà báo, triết gia André Gorz , 84 tuổi, và vợ, Dorine Kay, 83. Ngày 24 tháng 09/2007, họ đồng tình dắt nhau đi về cõi vĩnh hằng trước khi bịnh tật và tuổi tác ngày càng chất chồng.

Nguyên nhơn những vụ đồng loạt tự hủy, theo các nhà xã hội học và phân tâm học, đến nay thảy đều xuất phát hoặc từ môn đồ dòng phái tận thế, hoặc từ những gia đình bị thảm kịch giấu kín dồn vào thế cùng, hoặc từ các cặp vợ chồng già nua đau ốm, tránh tình trạng thể xác và tinh thần lần hồi lụn bại hay cảnh chia lìa kẻ trước người sau. Chắc hẳn trường hợp cặp André/Dorine thuộc loại thứ ba này : họ đã dự tính như vậy, qua một bức thư tình soạn thảo năm ngoái.

Thư cho emDo chính André Gorz chấp bút dưới nhan đề Lettre à D. – Histoire d’un amour (Thư cho D. - Khối tình bất diệt - Nxb Galilée), phát hành tháng 09/2006, đúng một năm trước. Tác phẩm tối hậu của một văn gia, sau thời gian hoạt động tích cực trong ngành báo chí và triết luận và trước khi từ giã cõi đời, trở về với đề tài muôn thuở : tình yêu. Bức thư khai mào : « Em nay đà tròm trèm tuổi tám mươi hai. Thân mình co thắt, còm cõi mất sáu phân, chỉ còn nặng bốn mươi lăm kí, vậy mà dưới mắt anh em vẫn mĩ miều, duyên dáng và quyến rũ làm sao ! Chúng mình chung sống với nhau đã năm mươi tám năm ròng, vậy mà anh vẫn yêu em tha thiết. Vẫn cảm thấy lồng ngực mình giá lạnh mỗi khi không được thân xác em hâm ấm trên làn da thớ thịt. »

Ít có tác phẩm nào, ngay mấy dòng đầu, mà thu hút tâm trí độc giả chúng ta đến nhường ấy. Chỉ cần vài câu đơn giản, không chút kiểu cách, là đà tạo nên giai điệu, giọng nói, cảm xúc, bởi nó vọt ra tự đáy lòng và máu huyết của một con người đà ở tuổi bát thập. Bức thư 76 trang vỏn vẹn viết cho ngưòi vợ đau yếu, gần đất xa trời, chưa biết rõ giờ khắc cuối cùng. Trước mặt người vợ và trước mặt mọi người, tác giả không ngần ngại, tuy vẫn tế nhị, tự hỏi : khối tình gắn bó đó của mình được xây trên nền móng nào, bằng bí quyết nào. Nhờ đâu mà nó bền vững ngót sáu thập niên một cách kì diệu tới mức ấy ; mà nó tự dưng hóa nên thành phần bất phân trong cuộc đời của mình như vậy. Hẳn là vì : « Thuở ấy (chiến tranh thế giới 1939-1945) hai đứa mình đều cùng sống chung trong tình cảnh bấp bênh, thời buổi xáo trộn (cha tác giả vốn tộc Do thái, Dorine Kay gốc Hồng mao, họ gặp nhau ở thủ đô nước Áo dưới quyền quân phiệt Đức). Chúng mình khôn thôi bảo trợ lẫn nhau, đồng tình đồng cánh với nhau. Anh biết rõ như vậy và tin rằng em cũng biết rõ như vậy. »

Trên thực tế, suốt thời gian chung sống, Dorine Kay không ngừng là chỗ dựa tinh thần và vật chất cho André Gorz dựng nên sự nghiệp triết học và báo chí của mình. Họ tuy hai mà một, hợp nhứt với nhau. Bức thư kết thúc : « Cả hai đứa mình không đứa nào lại muốn tiếp tục sống sau kẻ mất sớm. Giả thử, như chúng mình thường thổ lộ cùng nhau, sau cái chết có một đời sống khác, thì hai đứa mình đều đồng tâm ước vọng được sống tiếp bên nhau. » Vô hình trung ước vọng này báo trước quyết định sẽ diễn ra ngày 24 tháng Chín vừa rồi.

Sự nghiệp sóng đôi Vào cuối cuộc đời, sau khi đà dựng nên sự nghiệp triết học và báo chí, André Gorz không ngớt nghĩ tới công ơn người vợ đã nâng đỡ mình trong suốt thời gian lao lực. Ghi khắc hình ảnh Dorine Kay sao cho khỏi phai mờ : « Không có em bên cạnh, thì làm sao sự nghiệp ấy được hình thành và phát triển. Là thành tựu của những ngày dài đối thoại khôn dứt giữa đôi ta, giữa hai đứa chúng mình, vậy mà nó chỉ mang có mỗi một tên anh trên trang sách và trong tâm trí mọi người. »

Chào đời năm 1923 ở Áo, André Gorz giả dạng trốn sang Thụy sĩ lúc 15 tuổi khi trùm quốc xã Đức Adolf Hitler (1889-1945) bạo hành, thôn tính nước Áo qua chánh sách Anschluss. Năm 1946, gặp triết gia Jean-Paul Sartre (1905-1980) ở Lausane. Thuyết hiện sinh hành động đặc cách của triết gia này (*) phù hợp với kinh nghiệm bản thân của ông, của con người « đi tìm mình qua thân phận của chính mình ». Triết luận Le Traître (Phản bội - 1955) ra đời với lời giới thiệu nồng nhiệt của Jean-Paul Sartre. Cộng tác với tạp chí Temps modernes (Thời đại), do triết gia này chủ trương, từ năm 1961 tới năm 1973. Tiếp tục triển khai suy luận, nhập thêm mảng kinh tế, xã hội, sinh thái vào triết thuyết hiện sinh. Luận thuyết Adieux au prolétariat (Giã từ giai cấp vô sản – 1980) đánh dấu một bước tiến trong suy luận, tiên quyết rằng lao động trong ngành kĩ nghệ sẽ tự nhiên phân tán trong xã hội tư bản - luận thuyết gối đầu giường cho mọi nhà nghiên cứu cùng chủ đề.

Song song với công trình triết học và xã hội học gồm trên dưới 15 tác phẩm, André Gorz dấn thân vào nghề báo. Dưới biệt danh Michel Bosquet, ông làm phóng viên cho tờ Paris Presse (Paris báo), và sau đó, lần lượt cho tuần báo Express (Tin nhanh) và Le Nouvel Observateur ( Người quan sát đổi mới). Rồi trở thành tổng biên tập tuần báo này, chuyên trách phần xã hội, kinh tế, sinh thái, cho tới năm 1983. Luận thuyết L’Immatériel (Phi vật thể - 2003), khảo sát hiện tượng con người ngày càng không được khoa học và tài lực chú trọng đúng mức, kết thúc sự nghiệp nghiên cứu của ông.

Và kết thúc cuộc đời bằng một lá thư tình, gọn trong 76 trang. Nhưng là những trang cô động, trong như ngọc, nhẵn như hòn đá cuội - nghiễm nhiên chứng tỏ rằng văn chương đích thật chỉ nảy sanh từ những trái tim không màu mè và không sơn phết. Một tác phẩm để đời.

 

TRẦN THIỆN - ĐẠO

(Paris, 09/10/2007)

---------------------------

(*) Xem : Trần Thiện-Đạo, Chủ nghĩa hiện sinh hành động và thuyết cấu trúc (Nxb Văn hóa – 2001), phần I, tr. 8-269.

Gia tài văn hóa

KIỆT TÁC NGÔN NGỮ

Có ai ngờ rằng một tác phẩm tái bản hằng năm từ hơn một thế kỷ nay mà lại bán chạy như tôm tươi, mỗi lần bán hết 700.000 cuốn như chơi. Sách gì vậy ? Tiểu thuyết phong tình dồn dập mây mưa ? Truyện trinh thám tình tiết hồi hộp ? Hồi ký nẩy lửa của một siêu sao lẫy lừng ? Sấm truyền của một nhà tiên tri khét tiếng ? Không phải đâu, bạn đoán sai ráo. Đó là một cuốn từ điển : cuốn Petit LAROUSSE illustré (Từ điển thông dụng LAROUSSE minh họa – Nxb Larousse), mỗi năm tái bản một lần, có sửa chữa và thêm bớt hợp thời. Ấn bản 2008 mới vừa phát hành.Pierre Larousse

Mọi sự bắt nguồn từ ý chí của một thày giáo tỉnh lẻ : Pierre Larousse (1817-1875). Nhận thấy chương trình giảng dạy trong nhà trường công lập bấy giờ vừa lạc hậu vừa thiếu sách, ông bèn cuốn gói lên thủ đô Paris lập nghiệp trong một trường… tư, tư thục Jauffret. Thời gian giảng dạy trong nhà trường nội trú rất ư đắt khách này, ông khởi sự soạn thảo giáo trình Lexicologie des études primaires Cours complet de langue française (Ngữ vựng tiếng Pháp dành cho cấp một – 1849), dạy học trò ăn nói đúng mẹo và viết đúng chánh tả. Cũng nên nhắc tới ở đây đóng góp của bà Suzanne Caubel, vợ ông, trong việc hiệu đính và trình bày tập sách - khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới bà Dorine Kay, hơn một thế kỉ sau, cũng góp phần không ít cho sự nghiệp triết học và báo chí của người chồng André Gorz (1913-2007) cả hai vừa từ trần mới đây. (*)

Trong thời gian này, Pierre Larousse cùng một đồng nghiệp là ông Augustin Boyer sáng lập nhà xuất bản Larousse & Boyer chuyên in sách giao khoa, rồi trở thành Nxb Larousse khi họ chia tay nhau. Cho tới khi qua đời, ông miệt mài soạn đều đặn mỗi năm một biên khảo về ngôn ngữ Pháp và nguồn gốc Latin và Hi lạp của nó - gồm trên dưới 20 đầu sách thảy đều được giới nghiên cứu đón chào nồng nhiệt. Là kết quả một cuộc đời tận tụy, nghiên cứu không ngừng nghỉ chẳng những về ngôn ngữ mà cả về mọi địa hạt khác, như ông đã tuyên bố, để ‘’ thực hiện một cuốn từ điển bách khoa, bao trùm mọi tri thức cần thiết cho đời sống tinh thần ‘’. Thời ấy, đa số ngưòi dân còn thất học hoặc mù chữ, cần phải được‘’ soi sáng bằng mọi cách, giúp họ có một số hiểu biết tối thiểu ‘’. Từ năm 1863 tới năm 1875, trước khi qua đời, ông đã lần hồi hoàn tất tập Grand dictionnaire universel du XIXè siècle (Đại từ điển bách khoa thế kỉ XIX) dầy hơn 20.700 trang.

Trong số 20 tác phẩm nghiên cứu và biên khảo của ông, cần phải kể đặc biệt quyển Nouveau dictionnaire de la langue française (Tân từ điển tiếng Pháp – 1856) vốn là tiền thân cuốn Từ điển thông dụng LAROUSSE minh họa ngày nay, chủ đề của bài này.

Gởi hương cho gió Nguyên tác là Je sème à tout vent, biểu hiệu quyển từ điển tiếng Pháp minh họa nói trên, mà những ai có trong tay kể từ năm 1905 tới nay thảy đều thấy vẽ ngoài bìa. Logo đầu tiên này do kiến trúc sư kiêm trang trí gia Emile Reiber hình tượng, lấy cọng hoa pissenlit, cũng gọi là bồ công anh, phân tán hột giống bay lượn khắp nơi. Điều đáng tiếc là biểu tượng gởi hương cho gió chỉ được thực hiện khi Pierre Larousse đã qua đời vào tuổi 57. Năm 1890, cọng hoa pissenlit được hai họa sĩ Eugène Grasset và Georges Moreau ghép thêm hình la semeuse, người phụ nữ thổi phun hột giống, tượng trưng cho mục đích của tác phẩm là truyền bá tri thức cho mọi người..

Nhưng phải đợi tới đầu thế kỉ XX, cuốn Tân từ điển tiếng Pháp mới đổi tên thành Từ điển thông dụng LAROUSSE minh họa. Ông Yves Garnier, đương kim giám đốc phòng Từ điển và Ngôn ngữ Pháp Nxb Larousse, tường trình : « Chính nhà ngôn ngữ học Claude Augé (1854-1924) là người có sáng kiến kèm thêm minh họa. Ông cho rằng hình ảnh rất quan trọng trong việc lãnh hội ý nghĩa từ ngữ giải thích. Ngay khi mới ra đời năm 1905, cuốn Từ điển minh họa đã thành công rực rỡ. Từ bấy đến nay, nhiều gia đình chỉ có mỗi một quyển sách trong nhà, thì đó là cuốn từ điển này. » Có lẽ sự thành công này đã thúc đẩy, nửa thế kỉ trước đây, Nxb Khai–Trí ở Sài gòn ấn hành cuốn Việt-Nam tân từ điển minh họa (1965), nhái theo công trình Larousse, của Thanh-Nghị - đồng lượt với cuốn Từ điển tiếng Việt không có minh họa do Văn Tân chủ biên và do Nxb Khoa học xã hội ấn hành ở Hà nội.

Sau hơn một thế kỉ, cuốn Từ điển thông dụng LAROUSSE minh họa vẫn giữ nguyên cấu trúc cố hữu, chia thành ba phần. Phần đầu dành cho danh từ chung, phần sau cho danh từ riêng – cũng gọi là phần lịch sử, và phần giữa màu hồng cho tục ngữ và thành ngữ tiếng ngoại thường dùng trong đối thoại và văn học. Riêng các minh họa thì theo thời gian luôn hồi thích nghi với tiến triển kĩ thuật, ảnh màu lần lượt thay cho tranh vẽ.

Một tác phẩm không những thuộc hạng best-seller, sách bán chạy, mà còn là một long-seller, sách liên tục bán chạy.

 

TRẦN THIỆN - ĐẠO

(Paris, 25/10/2007)

-------------------------

(*) Xem : Thư cho em - Chuyện một khối tình bất diệt (Thể thao & Văn hóa, số 67, ngày 11/10/2007).

 

 

 

 

Paris văn học

CON NHÍM LỊCH LÃM

 

Từ ngày ra mắt bạn đọc ngót một năm nay, thiên truyện thường xuyên đứng đầu sách bán chạy. Đã được hồi bản 41 lần, mỗi lần 10.000 bản, và đến nay bán sạch hết 400.000 cuốn. Trong thời gian này, tác phẩm lần lượt trúng nhiều giải thưởng, từ giải Georges-Brassens tới giải Thư quán qua các giải Độc giả tỉnh lẻ, Văn hóa và Thư viện…mỗi giải một số lượng độc giả riêng biệt. Đã được dịch trên mười thứ tiếng Á Âu, Nhựt bổn, Trung hoa, Thái, Anh-Mĩ, Đức, Bồ đào nha … Sắp dựng thành phim nhựa. Một điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, là nó không những được giới phê bình và quan sát văn học chú trọng mà còn được độc giả truyền miệng nhau mua, bàn luận. Truyện gì vậy ?

Hài kịch Một thứ hài kịch đạo lí nhan là L’Élégance du hérisson (Con nhím lịch lãm – Nxb Gallimard) – cái tựa đề hàm ý này không khỏi khiến chúng ta nghĩ tới cuốn truyện hoạt kê Gấu con phiêu lưu kí của nhà văn Phần lan Arto Paasilinna (*). Tiểu thuyết thứ hai của một nhà giáo dạy triết ở tỉnh lẻ : Muriel Barbery. Tuy tác phẩm đầu tay La gourmandise (Khoái khẩu) phát hành hai năm trước cũng đã được đón chào nồng nhiệt và chuyển ngữ qua nhiều thứ tiếng, tác giả vẫn không ngờ rằng cuốn truyện thứ hai của mình lại tự dưng trở thành một hiện tượng văn chương hiếm thấy như vậy.

« Nhờ có ông Mác mà tôi nhìn thấy cuộc đời hoàn toàn khác hẳn. » Đây là lời một cậu choai choai con ông cháu cha ít khi giao tiếp với hạ tầng xã hội bất ngờ rỉ vào tai mụ gác cửa. Mụ giới thiệu mình : « Tui tên là Renée, năm mươi bốn tuổi, gác cửa nhà số 7 đường Grenelle, một căn hộ sang trọng ở Paris. Góa chồng, xấu như ma lem, lùn tè lùn tịt, tròn trịa béo phì, tay chưn chai cứng và, cứ như tui tự mình ngửi thấy mỗi sáng, thì mồm miệng hôi rình. Còn dáng vẻ thì lại y chang hình trạng hạng người gác cửa, thành ra chẳng có ma nào nghĩ rằng tui học thức coi vậy chớ cũng vượt xa lũ giàu có nứt đố đổ vách tự phụ hợm hĩnh kia. » Chẳng ai ngờ rằng mụ đã đọc biết bao * triết gia, Emmanuel Kant, Edmund Husserl mà mụ rất khoái, * phân tâm gia mà mụ cho là vừa tầm phào vừa lố bịch, * tiểu thuyết gia mà mụ ưa chuộng đến mức đặt tên con mèo già của mình là Léon để tưởng nhớ Tolxtoï. Lại nữa, mụ còn thính nghe nhạc giao hưởng loại Wolfgang Mozart, Ludwig van Beethoven, Franz Liszt và đồng lượt ngưỡng mộ các nhà đạo diễn màn ảnh đặc biệt là Ozu Yasujiro, tác giả một loạt phim để đời…

Sóng đôi với mụ trong cuốn truyện còn có một cô bé ngộ nghĩnh khác thường. Cô ta tự giới thiệu : « Tôi tên là Paloma, mười hai tuổi chẵn, ở nhà số 7 đường Grenelle trong căn hộ sang trọng giàu có. Cũng từ lâu rồi, tôi đã nghiệm thấy trước cuộc đời người lớn của mình, với bể nuôi cá, với chuỗi ngày trống rỗng và đần độn. Làm sao biết trước được như vậy hả ? Có gì lạ đâu, tôi vốn rất thông minh. Cực kì thông minh, hiểu biết mau lẹ. Nhờ vậy mà tôi đã lấy quyết định ngay liền bây giờ : sau năm học, vừa đúng tuổi mười ba, là tôi tức khắc lìa cõi đời này. » Tuy chưa trưởng thành, nhưng năng khiếu vượt bực, nên cô nàng đà thấu hiểu mọi sự trên đời. Chính cô đã chọn biệt danh con nhím đặt cho mụ gác cửa. Đúng y như mình nhận xét : « Mụ gác cửa Renée bổn tánh giống hệt loài nhím : bề ngoài thì gai góc nhọn hoắc rậm rạp như tường vách thành trì, còn ở bên trong thì tôi đoan chắc là hết sức tao nhã tế nhị chẳng khác gì nhím ta, là loại động vật cứ như chậm chạp uể oải, đơn độc một mình, vậy mà thật ra là lịch lãm hết cỡ. » Trọn cả chủ đề dựng nên câu chuyện dài 360 trang !

 

Biếm họaVới thứ văn phong tưng tửng, mỉa mai, u mặc, nhà giáo dạy triết Đại học Sư phạm tỉnh lẻ Muriel Barbery không hề tỏ ra thông thái, uốn éo làm dáng. Về cả hai mặt hình thức và nội dung, khác hẳn ít nhiều nhà văn trẻ mới vào nghề ở bên này cũng như ở bên ta (xin khỏi nhắc tên), tưởng rằng văn mình càng hủ nút khó hiểu bao nhiêu thì nó càng siêu đẳng cao đẹp bấy nhiêu - khiến cho độc giả tự nhiên phải kính nhi viễn chi. Đằng này, tác giả cuốn Con nhím lịch lãm cứ viết văn theo nhịp thở của mình phù hợp với hoạt cảnh, khi thì đều đều, khi thì hối hả, nhưng cùng hướng tới cuộc sống hằng ngày qua con mắt của hai nhơn vật chánh.

Mụ gác cửa thạo đời Renée và cô bé ngỗ nghịch Paloma thoạt đầu là hai hoang đảo, cách biệt với nhau. Nhưng rồi với sự việc dồn dập diễn ra trong căn hộ, những chuyện nhỏ, thật nhỏ, nhưng thuộc loại soi sáng cuộc đời, họ lần hồi biến thái, hóa thân. Chui ra khỏi cảnh tình cô độc, không những trong giao tiếp mà cả trong nội tâm. Và đồng thời đóng vai hề trong một vở chèo, dựng nên bức tranh biếm họa giới thượng lưu - cuốn hút mọi tầng lớp độc giả, kể cả những kẻ bị chế giễu.

Thành tựu và thành công của Muriel Barbery chắc là nhờ vậy.

TRẤN THIỆN - ĐẠO

(Paris, 07/09/2007)

----------------------------

(*) Xem : Ngụ ngôn hiện đại - Gấu con phiêu lưu ký (Thể thao & Văn hóa, số 87, ngày 21-7-2007).

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
04 Tháng Tám 202111:36 CH(Xem: 8993)
Thỉnh thoảng tôi dọn sách vở xem cuốn nào cần giữ, cuốn nào mang cho, và đặc biệt là cuốn nào cần gửi trả khổ chủ kẻo lỡ quên đâm mang tiếng. Thuộc vào số ít sách phải gửi lại khổ chủ, tôi tìm thấy cuốn này: Vietnamese Colonial Republican – The Political Vision of Vu Trong Phung, tạm dịch là Người Việt Cộng hoà thời Thuộc địa - Viễn kiến Chính trị của Vũ Trọng Phụng, của sử gia Peter Zinoman thuộc phân khoa Sử học của Đại học California tại Berkeley. / Tôi vẫn có ý định viết bài giới thiệu tập biên khảo của GS Zinoman từ khi đọc xong, với nhiều thích thú, từ… giữa mùa đại dịch Covid vào hè năm ngoái. Bài bên dưới là lời giới thiệu khái quát tập biên khảo đã giúp tôi biết thêm rất nhiều về nhà văn Vũ Trọng Phụng vốn khá độc đáo của nền văn học tiền chiến, nay càng thêm (có thể nói là) độc nhất như một tay “tiền trạm” của chủ nghĩa cộng hoà tại Việt Nam dưới cái nhìn của sử gia Zinoman.
04 Tháng Tám 20218:53 CH(Xem: 8940)
Từ những ngày còn trẻ chưa biết lo là gì tôi đã tình cờ đọc tập thơ “Ngày Sinh Của Rắn” của nhà thơ Phạm Công Thiện, mà trong đó không biết vì sao tôi cứ nhớ mãi câu thơ này, “Cửu Long ca từ Tây Tạng!” Cũng từ đó Sông Cửu Long không bao giờ ngừng chảy trong ký ức của tôi. Và bây giờ tôi nhận được cuốn “Mekong – Dòng Sông Nghẽn Mạch” của nhà văn Ngô Thế Vinh như một tình cờ kỳ lạ mà tôi có với dòng sông lịch sử này.
03 Tháng Ba 202112:07 SA(Xem: 11052)
“Vòng Đai Xanh” của Ngô Thế Vinh được xem là một tiểu thuyết chiến tranh, được viết rất thực bởi một quân y sĩ xông pha ngoài trận tuyến. Cuộc chiến tự vệ của người dân Miền Nam chống xâm lược của Cộng Sản Miền Bắc kéo dài đến 15 năm (1960-75), nếu không nói đến hoạt động khủng bố, phá hoại 2-3 năm trước khi chiến tranh chính thức khai mào, cho nên chúng ta không thiếu những tác giả viết về cuộc chiến đó, cảm khái từ những mất mát, đổ vỡ, tan hoang của con người, của tuổi trẻ, của gia đình, của xã hội, của đất nước vì chiến tranh.
08 Tháng Chín 20209:38 CH(Xem: 12656)
Trong những ngày đang phải cố thủ tại gia một cách tuyệt vọng trước “kẻ thù vô hình” Corona virus giăng mắc, phong tỏa nơi nơi, “Mặt Trận Ở Sài Gòn” là một nguồn quên lãng lớn cơn đại dịch này. Trước hiện tại đang thêm phần đen tối không chỉ vì đại dịch Cô-Vy và nạn suy thoái/ lạm phát mà chủ yếu vì một chính tình thối nát, có khi người ta phải đi vay mượn một vài tia sáng từ quá khứ để có thể ngày qua ngày. Những câu chuyện cách đây cả 50 năm ở một nơi nay quá xa xôi bỗng dưng sống lại một cách da diết trong trí nhớ, trong con tim của mỗi chúng ta khi có “Mặt Trận Ở Sài Gòn” đặt đầu bàn ngủ (không phải gối đầu giường).
29 Tháng Tám 20202:15 CH(Xem: 13545)
Mặt trận ở Sài Gòn là một tuyển tập 12 truyện ngắn của Nhà văn Ngô Thế Vinh viết về kí ức thời chiến tranh vào thập niên 1970s, chủ yếu ở vùng núi rừng Tây Nguyên. Tuy có nhiều chứng nhân trong cuộc chiến, nhưng tác giả là một chứng nhân hiếm hoi ghi lại một giai đoạn chiến sự khốc liệt qua các câu chuyện được hư cấu hoá. Điểm đặc biệt của tập truyện ngắn này là có phiên bản tiếng Anh do một học giả ẩn danh dịch, có lẽ muốn chuyển tải đến độc giả nước ngoài về cái nhìn và suy tư của người lính phía VNCH.
02 Tháng Sáu 202010:06 CH(Xem: 15126)
Đã từ lâu tôi có một thói quen xấu, khi đọc thơ trí não tôi tự động phân loại rành rọt. Một: loại thi ca gây cho mình cảm hứng. Hai: loại không gây cảm hứng nếu không muốn nói làm mình mất hứng. Vậy mà lật tới lật lui, đọc đi đọc lại, tật xấu không nổi lên. Thay vào đó tôi thấy mình chăm chú lắng nghe. Tôi trở lại lần tay trên bìa sách, khoảng trắng với những vân vạch to nhỏ ngắn dài của biểu đồ tần số như phát lên một âm thanh vừa rè đục vừa trong vắt. Ở một nơi chừng như trống rỗng trắng xóa, ý tưởng mọc lên giữa âm thanh nhiễu loạn. Và bài Radio mùa hè tiếp tục văng vẳng
07 Tháng Mười Một 20198:36 CH(Xem: 19969)
Trong thời niên thiếu, anh cũng như một số bạn đều mê đọc tiểu thuyết, đọc thơ của các văn thi sĩ tiền chiến. Trong các nhóm nhà văn đó thì nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã ảnh hưởng đến anh nhiều nhất. Văn của họ nhẹ nhàng, trong sáng, với những truyện tình lãng mạn lồng trong khung cảnh quê hương đơn sơ và lúc nào cũng man mác tình yêu. Truyện của họ, không lúc nào thiếu trong tủ sách gia đình của anh. Trong nhóm đó, Nhất Linh được anh coi như một mẫu người lý tưởng, một nhà văn, một chiến sĩ cách mạng. Nhiều nhân vật trong truyện đã in sâu vào ký ức anh. Họ không những đã trở thành một phần đời sống của anh mà đôi khi lại là những giấc mộng không thành. Trong những năm cuối cuộc đời, ông xa lánh cảnh trần tục, như một tiên ông quy ẩn bên dòng suối Đa Mê của rừng lan Đà Lạt.
09 Tháng Bảy 201911:36 CH(Xem: 15416)
Đọc xong cuốn sách về một con người đã chết cách đây hơn nửa thế kỷ khi còn đương xuân, đương ở những năm tháng tiềm năng nhất về sức lực và trí lực, tự tôi dằn lòng nở một nụ cười lớn hạnh phúc cho riêng tôi.
04 Tháng Năm 201911:02 CH(Xem: 16097)
Bác Sĩ Ngô Thế Vinh chia xẻ với tôi một cuốn sách anh và các bạn anh đang soạn thảo. Cuốn sách về một cuộc đời rất ngắn của người bạn đồng nghiệp: Nghiêm Sỹ Tuấn, một Bác Sĩ Quân Y, một Thi Văn Sĩ , tử trận ở tuổi 31 tại Khe Sanh năm 1968 khi anh đang là Y Sĩ Trung Úy Tiểu Đoàn 6, Nhảy Dù.
07 Tháng Chín 20183:06 CH(Xem: 24965)
Đó là những bài thơ hiếm gặp trên đời này. Đó là thơ Lý Thừa Nghiệp. Đó là những dòng chữ làm chúng ta giựt mình ngay tức khắc. Như dường chữ nhảy ra khỏi trang giấy. Nhiều bài thơ của anh có sức mạnh làm tôi sững sờ, ngồi yên lặng lẽ, và dõi mắt nhìn cho tới dòng cuối bài thơ.